TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐK, TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU
BẢN ÁN 63/2023/HNGĐ-ST NGÀY 25/09/2023 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN
Ngày 25 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện ĐK, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số 136/2023/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 6 năm 2023, về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 59/2023/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 8 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 42/2023/QĐST-HNGĐ ngày 07 tháng 9 năm 2023, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Trương Thị Thanh H, sinh năm 1985.
Hộ khẩu thường trú: Tổ L, khu phố PT, thị trấn ĐK, huyện ĐK, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Địa chỉ: Ấp PH, xã LP, thành phố B, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
“Có đơn xin vắng mặt” Bị đơn: Ông Trần Ngọc T, sinh năm 1971.
Địa chỉ: Tổ L, khu phố PT, thị trấn ĐK, huyện ĐK, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. “Vắng mặt”
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 06/6/2023 và trong quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn bà Trương Thị Thanh H trình bày:
Về hôn nhân: Bà Trương Thị Thanh H và ông Trần Ngọc T tự nguyện chung sống với nhau từ năm 2006, đến năm 2007 mới đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn ĐK, huyện ĐK ngày 22/6/2007. Sau khi kết hôn vợ chồng sống chung tại khu phố PT, thị trấn ĐK, huyện ĐK. Vợ chồng sống chung hạnh phúc đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do ông T thường xuyên nhậu nhẹt bê tha, không có trách nhiệm với gia đình. Do mâu thuẫn nên vợ chồng đã sống ly thân và trong thời gian đó có vài lần hòa giải để hàn gắn tình cảm nhưng không thành. Đến tháng 3/2021, thì vợ chồng mỗi người sống một nơi, từ đó đến nay không gặp nhau để hàn gắn tình cảm. Nay, nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, hôn nhân không hạnh phúc và không thể đoàn tụ sống chung với ông T nên bà H yêu cầu Tòa án giải quyến cho bà được ly hôn ông T.
Về con chung: Trong thời kỳ hôn nhân bà H và ông T có 02 con chung là Trần Thị Thúy Q, sinh ngày 26/7/2007 và Trần Trương Diệp T, sinh ngày 30/01/2020, hiện nay đang sống cùng với bà H. Khi ly hôn bà H yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi dưỡng các con chung và không yêu cầu ông T phải cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bị đơn – ông Trần Ngọc T vắng mặt trong quá trình tố tụng.
Tòa án đã tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án số 136/2023/TLST- HNGĐ ngày 27 tháng 6 năm 2023; các Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, kèm theo giấy triệu tập ông T đến Tòa án để làm việc, nhưng ông T đều vắng mặt không có lý do và không có văn bản nào gửi cho Tòa án thể hiện ý kiến về nội dung vụ án. Vì vậy, Tòa án căn cứ tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ để giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
Phát biểu của Kiểm sát viên:
Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Đối với các đương sự: Nguyên đơn đã chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật; bị đơn vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại các phiên tòa sơ thẩm là chưa chấp hành pháp luật.
Về nội dung: Căn cứ tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án có căn cứ chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận cho bà Trương Thị Thanh H được ly hôn ông Trần Ngọc T; về con chung, đề nghị giao cháu Q và cháu T cho bà H được quyền trực tiếp nuôi dưỡng; ông T không phải cấp dưỡng nuôi con.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên toà, ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên. Tòa án nhân dân huyện ĐK nhận định:
[1]. Về tố tụng: Bị đơn ông Trần Ngọc T có nơi cư trú tại thị trấn ĐK, huyện ĐK, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện ĐK, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu theo quy định tại Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Bà Trương Thị Thanh H yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn ông Trần Ngọc T và yêu cầu được quyền nuôi dưỡng các con chung nên xác định là vụ án “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Nguyên đơn bà Trương Thị Thanh H có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; bị đơn ông Trần Ngọc T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến tham gia các phiên tòa sơ thẩm mở ngày 07/9/2023 và ngày 25/9/2023, nhưng ông T đều vắng mặt không có lý do. Căn cứ Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vụ án vắng mặt bà H và ông T theo quy định.
[2]. Về hôn nhân: Căn cứ giấy chứng nhận kết hôn số 100, quyển số 01/2007 ngày 22/6/2007 của Ủy ban nhân dân thị trấn ĐK, huyện ĐK, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, xác định hôn nhân giữa bà Trương Thị Thanh H và ông Trần Ngọc T là hợp pháp. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do ông T không chăm lo cho gia đình. Hai bên đã sống ly thân từ tháng 3/2021 đến nay không còn phụ thuộc nhau về tình cảm cũng như kinh tế. Nay, bà H xác định tình cảm vợ chồng không còn, hôn nhân không hạnh phúc nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà H được ly hôn ông T. Hội đồng xét xử xét thấy, hôn nhân giữa giữa bà H và ông T đã đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chấp nhận cho bà H được ly hôn ông T theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân gia đình.
[3]. Về con chung: Trong thời kỳ hôn nhân bà H và ông T có 02 con chung là Trần Thị Thúy Q, sinh ngày 26/7/2007 và Trần Trương Diệp T, sinh ngày 30/01/2020. Xét việc bà H yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi dưỡng các con chung khi ly hôn thấy rằng, hiện nay cháu Quỳnh và cháu Trúc đang sống với bà H, đồng thời cháu Quỳnh có nguyện vọng được ở với bà H khi bà H và ông T ly hôn và cháu Trúc đang còn nhỏ, do đó giao cháu Quỳnh và cháu Trúc cho bà H được quyền trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp.
Về việc cấp dưỡng nuôi con: Bà H không yêu cầu nên ông T không phải cấp dưỡng nuôi con.
[4]. Về tài sản và nợ chung: Bà H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[5]. Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội thì nguyên đơn bà H phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 56, khoản 1 Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 của Luật hôn nhân gia đình;
Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147 và Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
Tuyên xử:
1. Về hôn nhân: Bà Trương Thị Thanh H được ly hôn ông Trần Ngọc T.
2. Về con chung: Giao các cháu Trần Thị Thúy Q, sinh ngày 26/7/2007 và Trần Trương Diệp T, sinh ngày 30/01/2020 cho bà Trương Thị Thanh H được quyền trực tiếp nuôi dưỡng. Ông Trần Ngọc T không phải cấp dưỡng nuôi con.
Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chưa thành niên; người không T tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở; cha mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở người không T tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục con.
Vì lợi ích của con, khi có yêu cầu của cha, mẹ hoặc các tổ chức, cá nhân được quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc hoặc yêu cầu mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật.
3. Về tài sản và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
4. Về án phí: Bà Trương Thị Thanh H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0010352 ngày 22 tháng 6 năm 2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện ĐK, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Bà Trương Thị Thanh H đã nộp đủ án phí sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; đối với đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được tống đạt hợp lệ để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 63/2023/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 63/2023/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đất Đỏ - Bà Rịa - Vũng Tàu |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 25/09/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về