TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N – TỈNH NINH BÌNH
BẢN ÁN 61/2022/HNGĐ-ST NGÀY 16/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN
Ngày 16 tháng 9 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện N mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số 125/2022/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 5 năm 2022 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 60/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 16 tháng 8 năm 2022, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1980 Địa chỉ: Thôn Đ, xã Gi, huyện N, tỉnh Ninh Bình.
- Bị đơn: Anh Nguyễn Mạnh T, sinh năm 1972 Địa chỉ: Phố B, Thị trấn N, huyện N, tỉnh Ninh Bình. Chị Lan, anh T vắng có đơn xin vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 25 tháng 5 năm 2022 và bản tự khai, nguyên đơn Chị Nguyễn Thị L trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị và Anh Nguyễn Mạnh T kết hôn năm 2001 có đăng ký tại Uỷ ban nhân dân Thị trấn N, huyện N, tỉnh Ninh Bình. Sau khi kết hôn anh chị sinh sống tại Phố B, Thị trấn N, huyện N. Sau khi lấy nhau hai vợ chồng chỉ sống hạnh phúc được khoảng vài năm đầu thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do bất đồng quan điểm không hợp nhau, mỗi lần vợ chồng va chạm anh T thường dùng bạo lực đối với chị. Hiện nay anh chị đã ly thân, chị xác định mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, không thể hàn gắn đoàn tụ với nhau được. Vì vậy chị đề nghị Tòa án nhân dân huyện N giải quyết cho chị được ly hôn với Anh Nguyễn Mạnh T.
Về con chung: Chị và anh T có 02 con chung là cháu Nguyễn Thu H sinh ngày 30/8/2003 (hiện đã trưởng thành tự lập) và cháu Nguyễn Thị Diễm Q sinh ngày 27/3/2005. Hiện cháu đang ở với anh T ám. Nếu ly hôn chị đồng ý cho anh T tiếp tục nuôi cháu Q.
Về tài sản chung, công nợ chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Đối với bị đơn Anh Nguyễn Mạnh T thể hiện tại Đơn xin xử vắng mặt ngày 29/8/2022: Anh xác định thời điểm kết hôn và sinh sống như Chị L trình bày là đúng. Hiện nay do sức khỏe không tốt và đang điều trị tại bệnh viện nên anh không thể trực tiếp tham gia vụ án được. Nay Chị L làm đơn xin ly hôn với anh T hì anh cũng đồng ý.
Về con chung: Anh và Chị L có 02 con chung như Chị L trình bày là đúng. Cháu Nguyễn Thu H sinh ngày 30/8/2003 (hiện đã trưởng thành tự lập) và cháu Nguyễn Thị Diễm Q sinh ngày 27/3/2005, hiện cháu Q đang ở với anh, anh có nguyện vọng được tiếp tục nuôi cháu. Anh không yêu cầu Chị L cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung, công nợ chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Ý kiến cháu Nguyễn Thị Diễm Q uỳnh: Cháu có nguyện vọng được tiếp tục ở với bố.
Ngày 25/5/2022 Tòa án nhân dân huyện N đã thụ lý vụ án, quá trình giải quyết Tòa án do anh T vắng mặt trong Phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải vì vậy vụ án thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được, vụ án được đưa án xét xử theo thủ tục chung.
Tại đơn xin xử vắng mặt, các đương sự vẫn giữ nguyên quan điểm .
Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên:
- Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Do bị đơn có nơi đăng ký hộ khẩu thường trú tại Thị trấn N, huyện N, tỉnh Ninh Bình nên Toà án nhân dân huyện N thụ lý giải quyết tranh chấp là đúng thẩm quyền theo quy định tại các Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật TTDS năm 2015. Việc thụ lý vụ án đúng quy định của pháp luật.
- Việc xác định quan hệ tranh chấp: Căn cứ đơn khởi kiện, Thẩm phán xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” là đúng quy định tại Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
- Về thời hạn chuẩn bị xét xử: Thẩm phán đã thực hiện đúng các quy định tại Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Quyết định đưa vụ án ra xét xử đảm bảo về hình thức, nội dung.
- Thời hạn gửi hồ sơ, văn bản tố tụng cho Viện kiểm sát: Đảm bảo quy định của pháp luật, việc tống đạt các văn bản tố tụng cho đương sự thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
- Việc giao nộp tài liệu chứng cứ: Thực hiện đúng các quy định tại Điều 96 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, các tài liệu là bản sao đều có chứng thực của cơ quan có thẩm quyền.
- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử vụ án, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự.
- Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn thực hiện đúng các quy định tại Điều 71 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Bị đơn không thực hiện đúng các quy định tại Điều 72 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, không có mặt tại phiên tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải mặc dù đã được triệu tập hợp lệ.
Đề nghị HĐXX: Áp dụng các Điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 5, 147, 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Đề nghị tuyên:
1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Chị Nguyễn Thị L. Xử ly hôn giữa Chị Nguyễn Thị L và Anh Nguyễn Mạnh T.
2. Về con chung và cấp dưỡng nuôi con chung: Giao cháu Nguyễn Thị Diễm Q sinh ngày 27/3/2005. Hiện cháu đang ở với anh T cho anh T tiếp tục chăm sóc và nuôi dưỡng cho đến khi cháu đủ 18 tuổi. Chị L không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh T ám.
3. Về án phí ly hôn: Chị Nguyễn Thị L phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH-14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí Toà án .
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]. Về thủ tục tố tụng:
[1.1]. Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Đây là quan hệ pháp luật “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
[1.2]. Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Bị đơn có hộ khẩu thường trú tại Thị trấn N, huyện N, tỉnh Ninh Bình nên Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Bình thụ lý vụ án là phù hợp với quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
[2]. Về nội dung: Căn cứ các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa HĐXX nhận thấy:
[2.1]. Về quan hệ hôn nhân:
Quan hệ hôn nhân giữa Chị L và anh T là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Tuy nhiên hai bên chỉ chung sống được với nhau thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do hai bên không hợp nhau. Cuộc sống vợ chồng của Chị L và anh T thường xảy ra xung đột và kéo dài, hai bên đã ly thân. Điều đó chứng tỏ quan hệ hôn nhân giữa hai bên chỉ còn tồn tại về mặt hình thức, mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của Chị L với anh T là có căn cứ, phù hợp Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
[2.2]. Về con chung: Chị L và anh T có 02 con chung là cháu Nguyễn Thu H sinh ngày 30/8/2003 (hiện đã trưởng thành tự lập) và cháu Nguyễn Thị Diễm Q sinh ngày 27/3/2005. Hiện cháu Q đang ở với anh T ám. anh T có nguyện vọng xin tiếp tục nuôi cháu. Hội đồng xét xử xét thấy: Hiện nay cháu Q đã lớn có thể tự chăm sóc bản thân . Mặt khác cháu Nguyễn Thị Diễm Q tuy chưa đủ 18 tuổi nhưng đã đi làm thuê, tự nuôi bản thân, cháu có nguyện vọng được tiếp tục ở cùng với bố. Vì vậy, để đảm bảo sự phát triển ổn định cho cháu nên tiếp tục giao cháu Nguyễn Thị Diễm Q cho anh T trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng là có căn cứ và phù hợp theo quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân gia đình.
[2.3]. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Do đương sự không có yêu cầu vì vậy không đặt ra việc giải quyết.
[2.4]. Về tài sản chung, công nợ chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.
[2.5]. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị L phải chịu theo quy định tại Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH-14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí Toà án.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ: Các điều 147, 227, 228, 238, 266, 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Áp dụng: - Các điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình;
- Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH-14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí Toà án.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Chị Nguyễn Thị L. Xử ly hôn giữa Chị Nguyễn Thị L và Anh Nguyễn Mạnh T 2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Thị Diễm Q sinh ngày 27/3/2005, hiện cháu Q đang ở với anh T cho Anh Nguyễn Mạnh T tiếp tục chăm sóc và nuôi dưỡng cho đến khi cháu đủ 18 tuổi hoặc có thay đổi khác. Chị Nguyễn Thị L không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng Anh Nguyễn Mạnh T.
Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.
Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.
3. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị L phải chịu theo quy định của pháp luật là 300.000 đồng. Được đối trừ vào số tiền tạm ứng án phí Chị L đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2021/0003606 ngày 25/5/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện N.
4. Quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị L và Anh Nguyễn Mạnh T được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 61/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 61/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Nho Quan - Ninh Bình |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 16/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về