TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 59/2021/HNGĐ-ST NGÀY 25/11/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN
Ngày 25 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương xét xử công khai vụ án hôn nhân và gia đình sơ thẩm thụ lý số 1418/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 12 năm 2020 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 39/2021/QĐST-HNGĐ ngày 29 tháng 4 năm 2021, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Diễm H, sinh năm 1996; hộ khẩu thường trú: 14/18 khu phố B, phường Bình C, thành phố T, tỉnh Bình Dương, vắng mặt, có yêu cầu xét xử vắng mặt.
Bị đơn: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1988; hộ khẩu thường trú: Thôn T, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa; tạm trú: 14/18 khu phố B, phường B, thành phố T, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, quá trình tố tụng nguyên đơn bà Nguyễn Thị Diễm H trình bày: Bà Nguyễn Thị Diễm H và ông Nguyễn Văn H tự nguyện tìm hiểu, tiến đến quan hệ hôn nhân và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường B, thị xã T (nay là thành phố Thuận An), tỉnh Bình Dương vào năm 2014. Sau khi về chung sống hạnh phúc với nhau một thời gian thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống dẫn đến cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc; ông H thường xuyên đánh bà H, đập phá đồ đạc trong nhà và thường xuyên uống rượu bia không lo lắng cho gia đình. Hiện nay, tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn và mục đích hôn nhân không đạt được nên bà H nộp đơn yêu cầu được ly hôn với ông Nguyễn Văn H.
Về con chung: Trong quá trình chung sống giữa bà H và ông H có 02 con chung tên Nguyễn Hùng M, sinh năm 03/7/2014 và Nguyễn Thị Bích T, sinh ngày 29/6/2017.
Khi ly hôn, bà H yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng 02 con chung tên Nguyễn Hùng M, sinh năm 03/7/2014 và Nguyễn Thị Bích T, sinh ngày 29/6/2017.
Về cấp dưỡng nuôi con chung: Bà H tự nguyện không yêu cầu ông Nguyễn Văn H cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung, nợ chung: Không tranh chấp, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Bị đơn ông Nguyễn Văn H đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án; Thông báo mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ; Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Quyết định hoãn phiên tòa; Thông báo về việc mở lại phiên tòa và các giấy triệu tập ông H đến Tòa án tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án. Tuy nhiên, ông H đều vắng mặt không rõ lý do.
- Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án và nội dung giải quyết vụ án: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án và tại phiên tòa xét xử đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục được pháp luật quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự. Bà H chấp hành đúng pháp luật tố tụng, ông H không chấp hành đúng pháp luật tố tụng.
Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ vào hồ sơ vụ án, các tài liệu, chứng cứ đã được Hội đồng xét xử xem xét, nhận thấy yêu cầu khởi kiện của bà H là có căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà H.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng
[1.1] Về thẩm quyền giải quyết: Bà Nguyễn Thị Diễm H khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Nguyễn Văn H, đồng thời ông H hiện đang sinh sống tại địa chỉ 14/18 khu phố B, phường B, thành phố T, tỉnh Bình Dương (theo biên bản xác minh ngày 06/01/2021) nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương theo quy định tại Điều 28, Điều 35 và Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[1.2] Về quan hệ pháp luật: Bà Nguyễn Thị Diễm H yêu cầu được ly hôn với ông Nguyễn Văn H, yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng 02 con chung và không yêu cầu giải quyết về tài sản chung, nợ chung. Do đó, Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật trong vụ án này là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo quy định tại Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[1.3] Trong quá trình giải quyết vụ án, ông Nguyễn Văn H được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia tố tụng và tham gia phiên tòa xét xử lần thứ 2 nhưng đều vắng mặt không rõ lý do; nguyên đơn bà H có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt bà H và ông H, xem như ông H từ bỏ quyền chứng minh.
[2] Về nội dung vụ án:
[2.1] Về hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Diễm H và ông Nguyễn Văn H tiến đến hôn nhân trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường B, thị xã T (nay là thành phố T), tỉnh Bình Dương vào năm 2014 nên quan hệ hôn nhân giữa bà H và ông H là hợp pháp.
Theo biên bản xác minh tại chính quyền địa phương thể hiện trong quá trình chung sống với nhau, chính quyền địa phương không nắm được tình hình mâu thuẫn giữa bà H và ông H do không ai trình báo. Tuy nhiên, theo Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hôn nhân gia đình số 277/2020/QĐST-HNGĐ ngày 29/9/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Thuận An thể hiện bà H đã khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông Nguyễn Văn H nhưng bà H tự nguyện rút đơn khởi kiện. Qua đó cho thấy, bà H có nguyện vọng vợ chồng hàn gắn tình cảm và xây dựng gia đình hạnh phúc cùng với ông H nhưng tình cảm không thể hàn gắn nên bà Hương tiếp tục nộp đơn khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông H.
Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở nhận định mâu thuẫn vợ chồng giữa bà Nguyễn Thị Diễm H và ông Nguyễn Văn H đã trầm trọng, tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận cho bà Nguyễn Thị Diễm H được ly hôn với ông Nguyễn Văn H.
[2.2] Về con chung: Trong thời gian chung sống, bà H và ông H có 02 con chung tên Nguyễn Hùng M, sinh năm 03/7/2014 và Nguyễn Thị Bích T, sinh ngày 29/6/2017. Bà H yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng 02 con chung và tự nguyện không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con. Nhận thấy, hiện nay bà H đang trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Nguyễn Hùng M và Nguyễn Thị Bích T. Do đó, để tránh sự thay đổi môi trường sống và học tập của cháu M, T nên Hội đồng xét xử giao 02 con chung cho bà H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và ghi nhận sự tự nguyện của bà H về việc không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con. Trường hợp sau này các đương sự có tranh chấp về người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung cũng như mức cấp dưỡng nuôi con thì có thể yêu cầu Tòa án giải quyết bàng vụ án khác theo quy định của pháp luật.
[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Không tranh chấp, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
[3] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa là có căn cứ và phù hợp pháp luật.
[4] Về án phí sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị Diễm H phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 266, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Căn cứ các Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình;
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Diễm H đối với ông Nguyễn Văn H về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn.
- Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Diễm H được ly hôn với ông Nguyễn Văn H.
- Về con chung: Giao 02 con chung tên Nguyễn Hùng M, sinh năm 03/7/2014 và Nguyễn Thị Bích T, sinh ngày 29/6/2017 cho bà Nguyễn Thị Diễm H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.
- Về cấp dưỡng nuôi con: Ghi nhận sự tự nguyện của bà Nguyễn Thị Diễm H về việc không yêu cầu ông Nguyễn Văn H cấp dưỡng nuôi con.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom con, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.
- Về tài sản chung, nợ chung: Không tranh chấp, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
2. Về án phí: Bà Nguyễn Thị Diễm H phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án đã nộp theo Biên lai thu số 0053296 ngày 02/12/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Thuận An (nay là thành phố Thuận An), tỉnh Bình Dương.
Các đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 59/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 59/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 25/11/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về