Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 55/2024/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 55/2024/HNGĐ-ST NGÀY 22/02/2024 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 22 tháng 02 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 747/2023/TLST-HNGĐ ngày 14 tháng 11 năm 2023 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 03/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 04 tháng 01 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số 40/2024/QĐST-HNGĐ ngày 22 tháng 01 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang, giữa:

1. Nguyên đơn: Chị Đặng Thị Mỹ C, sinh năm 2000 Địa chỉ: Thôn C, xã H, huyện P, tỉnh Phú Yên (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

2. Bị đơn: Anh Võ Minh T, sinh năm 1994 Địa chỉ: Ấp M, xã M, huyện C, tỉnh An Giang (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Đơn khởi kiện và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Đặng Thị Mỹ C trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị C và anh T do tự tìm hiểu nên tự nguyện tiến đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện P, tỉnh Phú Yên ngày 12/10/2018. Vợ chồng sống hạnh phúc đến khoảng 8/2022 thì phát sinh mâu thuẫn, thường xuyên xảy ra cự cãi do bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp nhau, anh T không chăm lo và quan tâm đến vợ con nên vợ chồng ly thân cho đến nay. Trong thời gian vợ chồng sống ly thân, gia đình hai bên không có tạo điều kiện để chị C và anh T hàn gắn tình cảm vợ chồng; bản thân chị C và anh T không có thiện chí hàn gắn tình cảm vợ chồng. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên chị C yêu cầu được ly hôn với anh T.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Võ Thị Gia H, sinh ngày 07/5/2019, hiện nay đang sống với chị C. Khi ly hôn, chị Đặng Thị Mỹ C yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung tên Võ Thị Gia H; không yêu cầu anh Võ Minh T cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết. Anh Võ Minh T vắng mặt nên không ghi nhận được ý kiến. Tại phiên tòa, Chị Đặng Thị Mỹ C có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và trình bày trong quá trình giải quyết vụ án.

Anh Võ Minh T vắng mặt nên không ghi nhận được ý kiến. Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm:

Việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án dân sự ở giai đoạn sơ thẩm: Người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng đã làm đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Về nội dung vụ án: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đặng Thị Mỹ C. Về quan hệ hôn nhân, chị Đặng Thị Mỹ C được ly hôn với anh Võ Minh T. Chị Đặng Thị Mỹ C được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung tên Võ Thị Gia H, sinh ngày 07/5/2019; anh Võ Minh T không phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung và nợ chung không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đề cập đến.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Theo giấy chứng nhận kết hôn, giấy khai sinh của con chung, anh Võ Minh T có nơi cư trú tại ấp M, xã M, huyện C, tỉnh An Giang. Đồng thời, tại Biên bản xác minh ngày 02/01/2024, anh Võ Minh T có cư trú tại ấp M, xã M, huyện C, tỉnh An Giang nhưng thường vắng mặt tại địa phương, do anh Võ Minh T không có trình báo chính quyền địa phương nên không xác định được anh Võ Minh T đi đâu và thời gian trở về địa phương. Căn cứ Điều 11 Luật Cư trú, Điều 5 và Điều 6 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Hội đồng xét xử xác định nơi cư trú của anh Võ Minh T tại ấp M, xã M, huyện C, tỉnh An Giang để giải quyết vụ án theo thủ tục chung.

[1.2] Chị Đặng Thị Mỹ C khởi kiện yêu cầu được ly hôn đối với anh Võ Minh T, yêu cầu được tiếp tục chăm, sóc nuôi dưỡng con chung khi ly hôn là tranh chấp về hôn nhân và gia đình. Đồng thời, anh Võ Minh T (bị đơn) có nơi cư trú tại ấp M, xã M, huyện C, tỉnh An Giang nên Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới thụ lý giải quyết là đúng theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[1.3] Đối với anh Võ Minh T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia tố tụng trong vụ án nhưng vắng mặt không có lý do trong quá trình tố tụng tại Tòa án. Đồng thời, tại phiên tòa, chị Đặng Thị Mỹ C có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; anh Võ Minh T đã được triệu tập hợp lệ lần thứ 02 để tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị Đặng Thị Mỹ C và anh Võ Minh T.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Đối với quan hệ hôn nhân:

Chị Đặng Thị Mỹ C cho rằng, chị C và anh T do tự tìm hiểu nên tiến đến hôn nhân vào năm 2018 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện P, tỉnh Phú Yên. Vợ chồng chung sống đến tháng 8/2022 thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp nhau, anh T không chăm lo và quan tâm đến vợ con nên vợ chồng sống ly thân cho đến nay. Trong thời gian vợ chồng sống ly thân, anh T không có thiện chí hàn gắn tình cảm vợ chồng; gia đình hai bên không có động viên, hàn gắn tình cảm vợ chồng cho chị C và anh T. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên chị C yêu cầu ly hôn với anh T.

Anh Võ Minh T đã được tống đạt các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật nhưng không có ý kiến phản đối đối với yêu cầu khởi kiện của chị Đặng Thị Mỹ C.

Xét thấy, chị Đặng Thị Mỹ C và anh Võ Minh T kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn theo quy định tại Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình, là hôn nhân hợp pháp nên được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Anh Võ Minh T đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật nhưng không có ý kiến phản đối đối với yêu cầu khởi kiện của chị C theo quy định tại Điều 91 và Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành hòa giải, hàn gắn tình cảm vợ chồng cho chị C và anh T theo quy định của pháp luật nhưng anh T vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng tại Tòa án nên không hòa giải được, thể hiện anh Võ Minh T không còn thiện chí níu kéo quan hệ hôn nhân giữa chị C và anh T nên lời trình bày của chị C về nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn và tình trạng hôn nhân giữa chị C và anh T đã lâm vào tình trạng trầm trọng là có cơ sở chấp nhận. Do đó, có căn cứ để xác định hôn nhân giữa chị C và anh T đã lâm vào tình trạng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài, việc chị C yêu cầu ly hôn anh T phù hợp với khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình nên được chấp nhận.

[2.2] Đối với con chung:

Chị Đặng Thị Mỹ C xác định chị C và anh T có 01 con chung tên Võ Thị Gia H, sinh ngày 07/5/2019, hiện nay đang sống với chị C. Khi ly hôn, chị C yêu cầu được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung tên Võ Thị Gia H, không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

Xét thấy, việc giao con chung là người chưa thành niên cho người chăm sóc, nuôi dưỡng khi chị C và anh T ly hôn phải đảm bảo điều kiện phát triển tốt nhất cho con cả về vật chất lẫn tinh thần. Căn cứ lời trình bày của chị C, từ khi vợ chồng sống ly thân, cháu Võ Thị Gia H sinh sống với chị C cho đến nay nên tình cảm của cháu đã gắn liền với người nuôi dưỡng; quá trình sinh sống với chị C, cháu H vẫn phát triển bình thường. Để ổn định cuộc sống cho cháu H, giúp cháu H phát triển tốt nhất về thể chất và tinh thần, Hội đồng xét xử xét thấy việc chị C yêu cầu được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung khi chị C và anh T ly hôn phù hợp với khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình nên được chấp nhận.

[2.3] Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Đặng Thị Mỹ C là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung khi chị C và anh T ly hôn nên anh Võ Minh T phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định tại khoản 2 Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình nhưng chị Đặng Thị Mỹ C không yêu cầu anh Võ Minh T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét. Trường hợp sau này có tranh chấp sẽ được giải quyết bằng một vụ án dân sự khác.

[2.4] Đối với tài sản chung, nợ chung: Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét. Trường hợp sau này có tranh chấp sẽ được giải quyết bằng một vụ án dân sự khác.

[3] Về án phí và quyền kháng cáo:

Chị Đặng Thị Mỹ C phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Các đương sự được quyền kháng cáo Bản án theo quy định tại Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

Điều 28, 35, 39, 147, 244, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Đặng Thị Mỹ C.

[1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Đặng Thị Mỹ C được ly hôn anh Võ Minh T.

Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 59/2018, ngày 12/10/2018 do Ủy ban nhân dân xã H, huyện P, tỉnh Phú Yên cấp cho chị Đặng Thị Mỹ C và anh Võ Minh T không còn giá trị pháp lý.

[2] Về con chung:

Chị Đặng Thị Mỹ C được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung tên Võ Thị Gia H, sinh ngày 07/5/2019. Hiện nay đang sống với chị Đặng Thị Mỹ C.

Anh Võ Minh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Chị Đặng Thị Mỹ C cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở anh Võ Minh T trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

Trên cơ sở lợi ích của con chung, theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

[3] Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[4] Về nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Đặng Thị Mỹ C phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 (ba trăm nghìn) đồng đã nộp theo Biên lai số 0014585 ngày 13/11/2023 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang.

[6] Về quyền kháng cáo: Đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

[7] Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

79
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 55/2024/HNGĐ-ST

Số hiệu:55/2024/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/02/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về