TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ UÔNG BÍ – TỈNH QUẢNG NINH
BẢN ÁN 50/2022/HNGĐ-ST NGÀY 29/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN
Bản án 50/2022/HNGĐ-ST ngày 29/09/2022 về y hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn Ngày 29 tháng 9 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 109/2022/TLST-HNGĐ ngày 14 tháng 9 năm 2022 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 51/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 15 tháng 9 năm 2022 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Cù Thị H; sinh năm 1990; Nơi ĐKHKTT: Thôn T, xã T, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt).
2. Bị đơn: Anh Trương Văn C; sinh năm: 1985; Nơi ĐKHKTT: Thôn T, xã T, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh; Hiện đang cai nghiện bắt buộc tại: Cơ sở cai nghiện ma túy tỉnh Quảng Ninh; Địa chỉ: Xã V, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh; Vắng mặt (có đề nghị xét xử vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 12/9/2022, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Cù Thị H trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị Cù Thị H và anh Trương Văn C tự nguyện kết hôn vào năm 2009, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh. Sau khi kết hôn vợ chồng về chung sống tại thôn T, xã T, thành phố Uông Bí. Quá trình vợ chồng chung sống đến khoảng năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng tính cách không hợp nhau, bất đồng về quan điểm sống, thường xuyên xảy ra cãi vã, xích mích nhau, cả hai đã sống ly thân từ đó đến nay. Đầu năm 2022 anh C sử dụng ma túy và phải chấp hành việc cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở cai nghiện ma túy tỉnh Quảng Ninh. Trong thời gian sống ly thân cả hai đã không còn quan tâm đến nhau, nay chị H xác định tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh C để sớm ổn định cuộc sống.
Về con chung: Trong thời gian chung sống cả hai có 02 con chung là Trương Quốc A, sinh ngày 06/11/2009 và Trương Quốc L, sinh ngày 27/3/2015, khi ly hôn chị H đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung và không yêu cầu anh C cấp dưỡng.
Về tài sản chung: Chị H không đề nghị Tòa án giải quyết.
* Đối với bị đơn anh Trương Văn C:
Tại biên bản lấy lời khai ngày 15/9/2022, anh Trương Văn C khai quá trình kết hôn, chung sống đúng như chị H đã trình bày tại Tòa là đúng. Trong quá trình chung sống vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn nhưng không đến mức trầm trọng, do sai lầm anh C đã sử dụng chất ma túy nên anh C đang phải chấp hành việc cai nghiện bắt buộc, anh C mong muốn sẽ sửa chữa sai lầm để chị H tha thứ và vợ chồng sống đoàn tụ nên anh C không đồng ý ly hôn.
Về con chung: Nếu ly hôn anh C đồngý để chị H được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung.
Về tài sản chung: Anh C không đề nghị Tòa án giải quyết.
Do hiện nay anh C đang thực hiện cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở cai nghiện ma túy tỉnh Quảng Ninh, không thể đến tham gia phiên tòa, do đó anh C đề nghị Tòa án giải quyết, xét xử vắng mặt anh C.
* Kết quả thu thập tài liệu, chứng cứ của Tòa án:
Tại biên bản xác minh ngày 14/9/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí, bà Hoàng Thị L là Trưởng thôn T, xã T cho biết: Trong quá trình chung sống tại địa phương, chị H và anh C thỉnh thoảng có xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng về quan điểm sống, tổ hòa giải của thôn đã hòa giải nhưng không có kết quả. Năm 2019 mâu thuẫn phát sinh căng thẳng, cả hai đã sống ly thân từ đó đến nay. Nay chị H có đơn xin ly hôn đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh phát biểu quan điểm:
- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự từ khi thụ lý vụ án đến khi xét xử;
- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của các đương sự: Nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật;
- Về quan điểm giải quyết vụ án: Có căn cứ chấp nhận đơn khởi kiện của chị Cù Thị H.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng vào phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
Việc thụ lý và giải quyết vụ án dân sự về tranh chấp hôn nhân và gia đình giữa các đương sự có nơi cư trú tại thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh nên thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Nguyên đơn, bị đơn đều đề nghị xét xử vắng mặt nên Tòa án xét xử vắng mặt các đương sự đảm bảo đúng quy định tại khoản 1 Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung vụ án:
- Về quan hệ hôn nhân: Chị Cù Thị H và anh Trương Văn C kết hôn hợp pháp, trên cơ sơ tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã T, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, nên được pháp luật công nhận và bảo vệ. Quá trình chung sống vợ chồng không được hạnh phúc, do tính cách không hợp nhau, bất đồng về quan điểm sống nên vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cả hai đã sống ly thân từ năm 2019 đến nay, trong thời gian sống ly thân cả hai đã không còn quan tâm đến nhau. Mặt khác, anh Cdo sử dụng trái phép chất ma túy nên đang phải chấp hành việc cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở cai nghiện ma túy tỉnh Quảng Ninh từ ngày 22/01/2022 đến nay. Như vậy, trược khi anh Ca đi cai nghiện bắt buộc, vợ chồng đã sống ly thân, thực thế đời sống hôn nhân không tồn tại, mục đích hôn nhân không đạt được. Anh C không đồng ý ly hôn nhưng bản thân anh C không có biện pháp gì để khắc phục mâu thuẫn. Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, hôn nhân không thể tồn tại nên Hội đồng xét xử chấp nhận cho chị H được ly hôn anh C là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.
- Về con chung: Chị H và anh C có 02 con chung là Trương Quốc A, sinh ngày 06/11/2009 và Trương Quốc L, sinh ngày 27/3/2015, do anh C hiện đang phải chấp hành việc cai nghiện bắt buộc, không có điều kiện chăm sóc các con chung nên khi ly hôn chị H có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung và không yêu cầu anh C cấp dưỡng. Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu của chị H là phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện thực tế của các bên, nên Hội đồng xét xử giao cho chị H được trực tiếp nuôi dưỡng các con chung là phù hợp với Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình.
- Về tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
- Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 227; Điều 228; Điều 271; khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51; Điều 56; Điều 57; Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Cù Thị H.
Tuyên xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Cù Thị H được ly hôn anh Trương Văn C.
2. Về con chung:
Giao cho chị Cù Thị H được trực tiếp nuôi dưỡng, trông nom, chăm sóc và giáo dục các con chung Trương Quốc A, sinh ngày 06/11/2009 và Trương Quốc L, sinh ngày 27/3/2015 kể từ tháng 9/2022 cho đến khi các con chung thành niên (đủ 18 tuổi).
Anh Trương Văn Ckhông phải cấp dưỡng nuôi con chung và có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Trường hợp, anh C lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì chị H có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của anh C.
3. Về án phí: Chị Cù Thị H phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm chị H đã nộp, theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0006922 ngày 14 tháng 9 năm 2022 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh;
4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định./.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 50/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 50/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Uông Bí - Quảng Ninh |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 29/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về