TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LÀO CAI – TỈNH LÀO CAI
BẢN ÁN 48/2022/HNGĐ-ST NGÀY 30/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN
Ngày 30 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 121/2022/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 7 năm 2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”.
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 50/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 26 tháng 8 năm 2022, Quyết định hoãn phiên tòa số 39/2022/QĐST-HNGĐ ngày 15 tháng 9 năm 2022 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Phàn Mùi S, sinh năm 1998; Địa chỉ: Thôn K, xã T, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai. Vắng mặt
Bị đơn: Anh Tẩn Ổng L, sinh năm 1995; Địa chỉ: Thôn K, xã T, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và bản tự khai tại Tòa án, nguyên đơn chị Phàn Mùi S trình bày:
Chị và anh Tẩn Ổng L kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn vào ngày 05/10/2017 tại Ủy ban nhân dân xã Gia Phú, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai theo quy định của pháp luật. Sau khi kết hôn anh chị chung sống hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không hợp nhau dân xđến thường xuyên cãi vã đánh chửi nhau. Đến nay chị xét thấy không còn tình cảm gì với anh L nữa nên làm đơn khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh L.
Về con chung: Sau khi kết hôn chị Phàn Mùi S và anh Tẩn Ổng L có 01 người con chung là cháu Tẩn Văn M, sinh ngày 12/7/2017. Khi ly hôn chị S có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cháu M cho đến khi trưởng thành, không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản: Chị Phàn Mùi S không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Trong quá trình giải quyết vụ án và tại đơn xin xét xử vắng mặt, chị Phàn Mùi S có ý kiến giữ nguyên quan điểm xin được ly hôn với anh L, và đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được nuôi dưỡng con chung của anh chị là cháu Tẩn Văn M, không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chị không yêu cầu Tòa án giải quyết Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký là đúng quy định của pháp luật; việc chấp hành pháp luật của đương sự kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Nguyên đơn đã chấp hành pháp luật đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Bị đơn không chấp hành các quy định của pháp luật về tố tụng.
Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 56, các Điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân gia đình; khoản 4 điều 147, Điều 227, Điều 228, 238 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, xử cho chị S được ly hôn anh L, giao con chung của chị S và anh L là cháu Tẩn Văn M, sinh ngày 12/7/2017 cho chị S trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc, giáo dục, Anh L không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Tuyên nghĩa vụ chịu án phí theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Quan hệ tranh chấp giữa các đương sự trong vụ án là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”. Nguyên đơn và bị đơn đều đăng ký Hộ khẩu thường trú tại Thôn K, xã T, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai. Căn cứ Điểm b, Khoản 1, Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.
Tại phiên tòa nguyên đơn chị Phàn Mùi S có đơn xin xét xử vắng mặt; Bị đơn anh Tẩn Ổng L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Do đó Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt tất cả các đương sự theo quy định tại điều 227, 228 và điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung:
[2.1] Về hôn nhân: Chị Phàn Mùi S và anh Tẩn Ổng L có đăng ký kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình nên hôn nhân của anh chị được pháp luật bảo vệ. Sau khi kết hôn, chị S và anh L chung sống hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do tính tình không hợp, vợ chồng không thống nhất quan điểm sống, làm ăn và nuôi con. Kết quả xác minh tại thôn K, xã T nơi chị S và anh L đăng ký hộ khẩu thường trú cho thấy giữa chị S và anh L có mâu thuẫn cãi nhau, hiện nay chị S và anh L đã sống ly thân được một thời gian, anh L thường xuyên đi làm nơi khác, không ở cố định tại địa phương, chị S đã về nhà bố mẹ đẻ ở. Như vậy có thể thấy hôn nhân của chị S và anh L đã đến mức trầm trọng, vợ chồng không quan tâm, chăm sóc lẫn nhau do đó mục đích hôn nhân không đạt được, nay chị S có nguyện vọng đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh L là có căn cứ, do cả hai anh chị đều không thực hiện nghĩa vụ của vợ, chồng theo quy định tại Điều 19 của Luật Hôn nhân và gia đình. Do đó chấp nhận yêu cầu của chị Phàn Mùi S, xử cho chị S được ly hôn với anh L. Hôn nhân giữa chị Phàn Mùi S và anh Tẩn Ổng L chấm dứt kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.
-Về con chung: Chị Phàn Mùi S và anh Tẩn Ổng L có 01 con chung là cháu Tẩn Văn M, sinh ngày 12/7/2017; chị Phàn Mùi S có nguyện vọng được nuôi dưỡng cháu Minh đến tuổi trưởng thành không yêu cầu anh L cấp dưỡng. Do cháu M chưa đủ 7 tuổi nên Tòa án không tiến hành lấy ý kiến. Tuy nhiên qua xác minh tại địa phương cho thấy anh L thường xuyên vắng mặt tại địa phương. Do đó Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị Phàn Mùi S giao con chung của chị S và anh L là cháu Tẩn Văn M cho chị S trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu đủ 18 tuổi, anh Tẩn Ổng L không phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản: Chị Phàn Mùi S không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[3] Về án phí: Chị Phàn Mùi S phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; 83 của Luật Hôn nhân gia đình; khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 4 Điều 147, các Điều 227, 228, 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Phàn Mùi S, cụ thể như sau:
1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Phàn Mùi S được ly hôn anh Tẩn Ổng L.
Hôn nhân của chị Phàn Mùi S và anh Tẩn Ổng L chấm dứt kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.
2. Về con chung: Giao con chung của chị Phàn Mùi S và anh Tẩn Ổng L là Tẩn Văn M, sinh ngày 12/7/2017 cho chị Phàn Mùi S trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến cháu đủ 18 tuổi, anh Tẩn Ổng L không phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
3. Về án phí: Chị Phàn Mùi S phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm. Xác nhận chị Phàn Mùi S đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí theo biên lai ký hiệu: AC-21P, số 0001592 ngày 01/7/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai. Chị Phàn Mùi S đã thi hành xong khoản tiền án phí dân sự sơ thẩm .
4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 48/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 48/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai - Lào Cai |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 30/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về