Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 45/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LÀO CAI – TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 45/2022/HNGĐ-ST NGÀY 19/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 19 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 97/2022/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 6 năm 2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”.

Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 42/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 15 tháng 8 năm 2022, Quyết định hoãn phiên tòa số 36/2022/QĐST-HNGĐ ngày 30/8/2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Thị L, Địa chỉ: Thôn S, xã C, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai. Có mặt.

- Bị đơn: Anh Đinh Công T, Địa chỉ: Thôn S, xã C, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và bản tự khai tại Tòa án, nguyên đơn chị Trần Thị L trình bày:

Chị và anh Đinh Công T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn vào ngày 28/7/2019 tại Ủy ban nhân xã Hồng Tiến, Kiến Xương, Thái Bình theo quy định của pháp luật. Sau khi kết hôn anh chị chung sống không hạnh phúc, thường hay phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh T mải chơi không quan tâm đến cuộc sống gia đình, chị L đã khuyên giải nhiều lần nhưng không có kết quả. Đến nay chị L xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên làm đơn khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh T.

Về con chung: Sau khi kết hôn chị Trần Thị L và anh Đinh Công T có 01 người con chung là cháu Đinh Tuyết S, sinh ngày 14/02/2020. Khi ly hôn chị L có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cháu San, không yêu cầu anh Đinh Công T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản: Chị Trần Thị L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình tòa án thụ lý giải quyết tòa án không tiến hành tống đạt được văn bản tố tụng cho anh T. Qua xác minh tại địa phương cho thấy khi Tòa án thông báo thụ lý anh T vẫn cư trú tại thôn S, xã C, nhưng không thường xuyên ở nhà, Tòa án đã tiến hành niêm yết văn bản nhưng anh T không đến làm việc tại Tòa án nên không hòa giải được, tòa án đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật và ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.

Tại phiên tòa chị Trần Thị L giữ nguyên quan điểm xin được ly hôn với anh T, và đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được nuôi dưỡng con chung của anh chị là cháu Đinh Tuyết S, sinh ngày 14/02/2020, không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chị không yêu cầu Tòa án giải quyết Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký là đúng quy định của pháp luật; việc chấp hành pháp luật của đương sự kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Nguyên đơn đã chấp hành pháp luật đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Bị đơn không chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật về tố tụng.

Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 56, các Điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân gia đình; khoản 4 điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, xử cho chị L được ly hôn anh T, giao con chung của chị L và anh T là cháu Đinh Tuyết S, sinh ngày 14/02/2020 cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc, giáo dục, Anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Tuyên nghĩa vụ chịu án phí theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Quan hệ tranh chấp giữa các đương sự trong vụ án là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”. Nguyên đơn và bị đơn đều cư trú tại Thôn S, xã C, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai. Căn cứ Điểm b, Khoản 1, Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.

Bị đơn anh Đinh Công T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Do đó Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh T theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về hôn nhân: Chị Trần Thị L và anh Đinh Công T có đăng ký kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình nên hôn nhân của anh chị được pháp luật bảo vệ. Sau khi kết hôn, chị L và anh T chung sống không hạnh phúc. Nay chị L xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn. Xét thấy hôn nhân của chị L và anh T đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, do đó Chấp nhận yêu cầu của chị Trần Thị L, xử cho chị L được ly hôn với anh T.

-Về con chung: Chị Trần Thị L và anh Đinh Công T có 01 con chung là cháu Đinh Tuyết S, sinh ngày 14/02/2020, Chị L có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cháu San không yêu cầu anh T cấp dưỡng. Tại phiên tòa chị Trần Thị L vẫn giữ nguyên quan điểm, vì hiện nay anh T đã bỏ đi đâu không ai biết, không còn liên lạc được với anh T. Từ khi anh chị mâu thuẫn cháu S vẫn ở với chị cho đến nay. Hội đồng xét xử xét thấy, cháu Đinh Tuyết S còn nhỏ, đến thời điểm giải quyết ly hôn cháu chưa đủ 36 tháng tuổi, do đó việc yêu cầu được trực tiếp nuôi con của chị L là phù hợp với quy định của Luật hôn nhân và gia đình nên được chấp nhận Do đó chấp nhận yêu cầu của chị Trần Thị L, giao con chung của chị L và anh T là cháu Đinh Tuyết S, sinh ngày 14/02/2020 cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng. Anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản: Chị Trần Thị L không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí: Chị Trần Thị L phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; 83 của Luật Hôn nhân gia đình; khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Trần Thị L, cụ thể như sau:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị L được ly hôn anh Đinh Công T. Hôn nhân của chị Trần Thị L và anh Đinh Công T chấm dứt kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

2. Về con chung: Giao con chung của chị Trần Thị L và anh Đinh Công T là cháu Đinh Tuyết S, sinh ngày 14/02/2020 cho chị Trần Thị L trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến đủ 18 tuổi, anh Đinh Công T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Trần Thị L phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm. Xác nhận chị Trần Thị L đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí theo biên lai ký hiệu: AC-21P, số 0001549 ngày 06/6/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai. Chị Trần Thị L đã thi hành xong khoản tiền án phí dân sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

80
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 45/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:45/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai - Lào Cai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về