Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 389/2023/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 389/2023/HNGĐ-ST NGÀY 26/12/2023 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 26 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số 451/2023/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 10 năm 2023, về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 439/2023/QĐXXST-HNGĐ ngày 21 tháng 11 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 313/2023/QĐST-HNGĐ ngày 08 tháng 12 năm 2023, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Đoàn Thị O, sinh năm 1989.

Địa chỉ trước khi xuất cảnh: Khu dân cư P, phường H, thành phố C, tỉnh Hải Dương. Nơi ở hiện nay: Nhật Bản.

- Bị đơn: Anh Đỗ Đức Q, sinh năm 1984.

Địa chỉ trước khi xuất cảnh: Khu dân cư P, phường H, thành phố C, tỉnh Hải Dương. Nơi ở hiện nay: Singapore.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông Đỗ Văn C, sinh năm 1957 và bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1961.

Đều có địa chỉ: Khu dân cư P, phường H, thành phố C, tỉnh Hải Dương.

Chị O, anh Q, ông C và bà T đều vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn xin ly hôn, bản tự khai, chị Đoàn Thị O trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Đỗ Đức Q tự do tìm hiểu, tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, thị xã C (nay là phường H, thành phố C), tỉnh Hải Dương vào ngày 17/12/2012. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc. Do hoàn cảnh gia đình nên đến năm 2015 chị làm thủ tục đi xuất khẩu lao động tại Nhật Bản. Thời gian đầu vợ chồng vẫn thường xuyên liên lạc và chia sẻ với nhau về cuộc sống và công việc. Nhưng do có mâu thuẫn từ trước, vợ chồng lại sống xa nhau nên mỗi lần chị gọi điện về nói chuyện thì thường xảy ra tranh cãi, bất đồng quan điểm, định hướng tương lai khác nhau. Đến năm 2021, anh Q làm thủ tục đi xuất khẩu lao động tại Singapore, đến nay chưa về nước. Từ khi anh Q đi Singapore thì chị và anh Q không còn liên lạc với nhau. Hai bên gia đình nhiều lần khuyên bảo, hàn gắn nhưng không được. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn không thể hàn gắn được, cuộc sống hôn nhân không có hạnh phúc nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Q để sớm ổn định cuộc sống riêng.

- Về con chung: Chị và anh Q có 01 con chung là Đỗ Tường G, sinh ngày 04/12/2013. Khi ly hôn, chị có nguyện vọng được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung đến khi trưởng thành. Trong thời gian chị không có nhà thì cháu ở với ông bà nội cháu là ông Đỗ Văn C và bà Nguyễn Thị T cho đến khi chị về nước.

- Về tài sản chung, vay nợ: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn: Quá trình giải quyết vụ án, chị O không cung cấp được địa chỉ của anh Q tại Singapore nên Tòa án đã xác minh qua gia đình anh Q, đồng thời yêu cầu gia đình cung cấp địa chỉ của anh Q. Ông Đỗ Văn C và bà Nguyễn Thị T là bố mẹ đẻ của anh Q trình bày: về thời điểm kết hôn, mâu thuẫn vợ chồng giữa chị O và anh Q như chị O trình bày là đúng. Hiện nay, anh Q đang làm việc tại Singapore, sau khi nhận được thông báo thụ lý và các văn bản của Tòa án, ông bà đã thông báo cho anh Q biết về việc chị O có đơn xin ly hôn và yêu cầu giải quyết việc nuôi dưỡng con chung. Quá trình Tòa án làm việc với ông C và bà T, anh Q điện thoại bằng hình thức trực tuyến có sự chứng kiến của ông C và bà T, trình bày quan điểm như sau:

- Về quan hệ hôn nhân: về thời điểm kết hôn như chị O trình bày là đúng. Thông qua gia đình anh được biết chị O có đơn xin ly hôn với anh. Quan điểm của anh không nhất trí ly hôn, nhưng nếu chị O cương quyết xin ly hôn, anh đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.

- Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Đỗ Tường G, sinh ngày 04/12/2013. Khi ly hôn anh có nguyện vọng được tiếp tục nuôi dưỡng con chung cho đến khi trưởng thành, việc cấp dưỡng là do tự nguyện của chị O. Trong thời gian anh ở nước ngoài, anh nhờ bố mẹ anh là ông Đỗ Văn C và bà Nguyễn Thị T thay anh chăm sóc cho đến khi anh về nước, bố mẹ anh đã nhất trí.

- Về tài sản chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Hiện nay anh đang đi làm xa nên anh xin vắng mặt tại các buổi làm việc và phiên tòa, các văn bản Tòa án gửi cho anh đề nghị gửi cho cho bố mẹ anh, ông bà sẽ có trách nhiệm thông báo cho anh.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông Đỗ Văn C và bà Nguyễn Thị T là bố mẹ đẻ anh Q xác định đã chứng kiến buổi làm việc của Tòa án với anh Q và xác định toàn bộ nội dung anh Q trình bày với Tòa án là đúng. Ông, bà nhất trí nhận thay các văn bản tố tụng của Tòa án gửi cho anh Q và có trách nhiệm thông báo cho anh Q. Nếu Tòa án giao con chung của chị O và anh Q cho anh Q nuôi dưỡng thì ông, bà nhất trí chăm sóc, nuôi dưỡng cháu giúp anh Q trong thời gian Q không ở Việt Nam.

Tại phiên tòa: Nguyên đơn chị O có đề nghị xin xét xử vắng mặt và có quan điểm giữ nguyên yêu cầu khởi kiện; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Đỗ Văn C và bà Nguyễn Thị T có quan điểm xin vắng mặt; Bị đơn anh Q vắng mặt tại phiên tòa không có lý do.

* Đại diện Viện sát nhân dân tỉnh H phát biểu quan điểm:

Về việc tuân theo pháp luật: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chấp hành đúng, đầy đủ quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn chưa chấp hành đúng quy định Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình: Xử cho chị Đoàn Thị o được ly hôn anh Đỗ Đức Q; Giao cho anh Q trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung Đỗ Tường A, sinh ngày 04/12/2013 kể từ tháng 12/2023 cho đến khi trưởng thành. Tạm giao cháu Đỗ Tường A cho ông Đỗ Văn C, bà Nguyễn Thị T chăm sóc trong thời gian anh Q không ở Việt Nam. Việc cấp dưỡng tiền nuôi con chung do chị O tự nguyện cấp dưỡng; Về tài sản chung, vay nợ: Các đương sự không yêu cầu nên không phải giải quyết; Về án phí: Chị O phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thm tra tại phiên toà, ý kiến phát biu của đại diện Viện kim sát nhân dân tỉnh Hải Dương, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng:

Chị Đoàn Thị O có đơn khởi kiện đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương giải quyết việc ly hôn giữa chị với Đỗ Đức Q. Anh Q hiện đang sinh sống và lao động tại Singapore, chị O đang sinh sống và làm việc tại Nhật Bản. Theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 37, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương.

Quá trình giải quyết vụ án, chị O không cung cấp được địa chỉ của anh Q tại Singapore. Theo hướng dẫn tại Công văn số 253/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương đã yêu cầu chị O và gia đình anh Q cung cấp địa chỉ, nhưng chị O và gia đình anh Q không cung cấp được. Ông C và bà T là bố mẹ đẻ anh Q xác định anh Q vẫn thường xuyên liên lạc với gia đình, ông bà đã thông báo về việc chị O có đơn xin ly hôn, anh Q không cung cấp địa chỉ và không gửi ý kiến trình bày bằng văn bản cho Tòa án. Do vậy, áp dụng Công văn số 253/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương tiến hành giải quyết vụ án theo thủ tục cố tình giấu địa chỉ.

Tại phiên tòa chị O, ông C, bà T đề nghị xin xét xử vắng mặt, anh Q vắng mặt không lý do nên Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt chị O, anh Q, ông C, bà T.

[2]. Về nội dung:

[2.1]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Đoàn Thị O và anh Đỗ Đức Q tự do tìm hiểu, tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, thị xã C (nay là phường H, thành phố C), tỉnh Hải Dương vào ngày 17/12/2012 là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc. Năm 2015, chị O làm thủ tục đi xuất khẩu lao động tại Nhật Bản. Thời gian đầu vợ chồng thường xuyên liên lạc và chia sẻ với nhau về cuộc sống và công việc. Sau đó, do có mâu thuẫn từ trước, vợ chồng lại sống xa nhau nên mỗi lần gọi điện về nói chuyện thì vợ chồng thường xảy ra tranh cãi, bất đồng quan điểm. Đến năm 2021, anh Q làm thủ tục đi xuất khẩu lao động tại Singapore, từ khi anh Q đi vẫn chưa về nước, từ đó chị O và anh Q không còn liên lạc với nhau. Chị O xác định không còn tình cảm với anh Q và có đơn xin ly hôn, quá trình giải quyết vụ án anh Q không gửi văn bản trình bày quan điểm nhưng đã điện thoại có hình ảnh trình bày quan điểm không nhất trí nhất trí ly hôn theo yêu cầu của chị O nhưng nếu chị O cương quyết xin ly hôn, anh đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật. Xét thấy: Anh Q và chị O hiện mỗi người sống một nơi, không ai quan tâm đến ai, anh Q không đồng ý ly hôn nhưng không có biện pháp nào để hàn gắn tình cảm vợ chồng mà đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Như vậy, cuộc sống hôn nhân của vợ chồng chị O, anh Q đã mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, Hội đồng xét xử xử cho chị O được ly hôn anh Q là phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình.

[2.2]. Về quan hệ con chung: Chị O và anh Q có 01 con chung là Đỗ Tường A, sinh ngày 04/12/2013 hiện đang ở với bố mẹ anh Q. Khi ly hôn, chị O và anh Q đều có nguyện vọng được nuôi dưỡng con chung. Nguyện vọng của chị O và anh Q đều chính đáng và có trách nhiệm, nghĩa vụ với con chung sau khi ly hôn. Xét thấy, hiện nay anh Q và chị O đều đang sinh sống tại nước ngoài, cháu A hiện đã trên 7 tuổi, đang ở cùng ông C và bà T là bố mẹ đẻ anh Q khỏe mạnh, học tập tốt và có nguyện vọng được tiếp tục ở với bố. Do đó, cần chấp nhận đề nghị của anh Q giao cháu A cho anh Q tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi trưởng thành, tiền cấp dưỡng nuôi con chung do chị O tự nguyện cấp dưỡng. Trong thời gian anh Q ở nước ngoài, tạm giao cháu A cho ông Đỗ Văn C và bà Nguyễn Thị T chăm sóc, nuôi dưỡng đến khi anh Q về nước là phù hợp với quy định của pháp luật.

Chị O được quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở là phù hợp với quy định tại Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình.

[2.3]. Về tài sản chung, vay nợ: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3]. Về án phí: Chị O là nguyên đơn nên phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định.

[4]. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 479 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân & Gia đình; khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 37, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 và khoản 3 Điều 228, Điều 479 Bộ luật Tố tụng dân sự; Luật Phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Đoàn Thị O được ly hôn anh Đỗ Đức Q.

2. Về con chung: Giao anh Đỗ Đức Q tiếp tục trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung Đỗ Tường A, sinh ngày 04/12/2013, thời gian từ tháng 12/2023 cho đến khi con chung trưởng thành, tiền cấp dưỡng nuôi con chung do chị O tự nguyện cấp dưỡng.

Tạm giao cháu A cho ông Đỗ Văn c và bà Nguyễn Thị T chăm sóc, nuôi dưỡng trong thời gian anh Q không ở Việt Nam.

Chị Đoàn Thị O có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Đoàn Thị O phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2023/0001221 ngày 19/10/2023 (chị O đã nộp đủ án phí).

4. Về quyền kháng cáo: Chị O, ông C, bà T vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết. Anh Q vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

123
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 389/2023/HNGĐ-ST

Số hiệu:389/2023/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về