Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 37/2024/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN DƯƠNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 37/2024/HNGĐ-ST NGÀY 29/03/2024 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 29 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở, Toà án nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 171/2023/TLST- HNGĐ ngày 04 tháng 12 năm 2023 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 02 tháng 02 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số 19/2024/QĐST-HNGĐ ngày 03 tháng 01 năm 2024, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Lương Thị L; Nơi cư trú: khu X, thị trấn A, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

Bị đơn: Ông Nguyễn Văn H; Nơi cư trú: Xóm M, thôn H, xã Đ, huyện A, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong Đơn khởi kiện ngày 23 tháng 11 năm 2023 và quá trình tố tụng, nguyên đơn bà Lương Thị L trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà kết hôn với ông Nguyễn Văn H trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã T, huyện A, thành phố Hải Phòng vào ngày 07 tháng 01 năm 1999. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại xóm M, thôn Đ (nay là thôn H), xã H, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng. Vợ chồng chung sống vui vẻ hạnh phúc đến năm 2013 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng là do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi nhau và mâu thuẫn đã được gia đình hòa giải nhưng không có kết quả. Do mâu thuẫn vợ chồng căng thẳng nên bà và ông Hải đã sống ly thân không ai còn quan tâm và có trách nhiệm với ai. Nay bà xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng không thể khắc phục được nên bà đề nghị Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Nguyễn Văn H.

Về con chung: Bà và ông Nguyễn Văn H có bốn con chung là Nguyễn Thị Thùy T, sinh ngày 27 tháng 8 năm 1999, Nguyễn Thị Thanh N, sinh ngày 21 tháng 6 năm 2003, Nguyễn Thị Thanh M, sinh ngày 11 tháng 01 năm 2008 và Nguyễn Mạnh T, sinh ngày 03 tháng 01 năm 2014. Ly hôn bà đề nghị Tòa án giao hai con chung Nguyễn Thị Thanh M và Nguyễn Mạnh T cho bà nuôi dưỡng, đối với các con chung Nguyễn Thị Thùy T và Nguyễn Thị Thanh N đã đủ 18 tuổi nên tự quyết định cuộc sống của mình. Về cấp dưỡng nuôi con chung, bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Bà Lương Thị L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện An Dương phát biểu ý kiến:

- Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, nguyên đơn đã chấp hành đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn vắng mặt tại các phiên họp, phiên tòa đã vi phạm các quy định tại Điều 70 và Điều 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử, căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, Điều 228; Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 39 của Bộ luật Dân sự; các điều 51, 56, 58, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình: Về quan hệ hôn nhân: Xử cho bà Lương Thị L được ly hôn ông Nguyễn Văn H. Về con chung: Giao con chung Nguyễn Thị Thanh M, sinh ngày 11 tháng 01 năm 2008 và Nguyễn Mạnh T, sinh ngày 03 tháng 01 năm 2014. cho bà Lương Thị L trực tiếp nuôi dưỡng sau ly hôn; đối với các con chung Nguyễn Thị Thùy T và Nguyễn Thị Thanh N đã đủ 18 tuổi nên tự quyết định cuộc sống của mình. Về cấp dưỡng nuôi con và tài sản chung: Không xem xét giải quyết. Về án phí: Bà Lương Thị L phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà Lương Thị L khởi kiện ly hôn đối với ông Nguyễn Văn H, yêu cầu khởi kiện của bà L thuộc T hợp ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Ông Nguyễn Văn H hiện đang cư trú tại xã H, huyện A, thành phố Hải Phòng nên theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện An Dương, T.P Hải Phòng.

[2] Về việc xét xử vắng mặt đương sự: Nguyên đơn bà Lương Thị L có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; bị đơn ông Nguyễn Văn H đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt tại phiên tòa không vì sự kiện bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan nên căn cứ khoản 2 Điều 227 và khoản 1, 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt nguyên đơn bà Lương Thị L và bị đơn ông Nguyễn Văn H.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ lời khai của nguyên đơn, tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp và do Tòa án thu thập, đủ cơ sở xác định: Bà Lương Thị L và ông Nguyễn Văn H kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T Sơn, huyện An Lão, thành phố Hải Phòng vào ngày 07 tháng 01 năm 1999, theo quy định tại Điều 8 và Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình đây là hôn nhân hợp pháp. Vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống nên xẩy ra mâu thuân, hiện tại vợ chồng đã sống ly thân không ai còn quan tâm đến ai. Ông Nguyễn Văn H mặc dù đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại các phiên họp hòa giải và các phiên tòa không có lý do, điều đó chứng tỏ ông Hải không còn quan tâm đến tình trạng hôn nhân của vợ chồng. Xét thấy, tình trạng hôn nhân của bà L và ông Hải đã mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, yêu cầu ly hôn của bà L là có căn cứ chấp nhận theo quy định tại khoản 1 Điều 51 và khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[4] Về con chung: Bà Lương Thị L và ông Nguyễn Văn H có bốn con chung là Nguyễn Thị Thùy T, sinh ngày 27 tháng 8 năm 1999, Nguyễn Thị Thanh N, sinh ngày 21 tháng 6 năm 2003, Nguyễn Thị Thanh M, sinh ngày 11 tháng 01 năm 2008 và Nguyễn Mạnh T, sinh ngày 03 tháng 01 năm 2014. Xét, con Nguyễn Thị Thanh M và Nguyễn Mạnh T chưa đủ 18 tuổi nên việc nuôi dưỡng con chung sau ly hôn là trách nhiệm và nghĩa vụ của cha mẹ. Quá trình giải quyết vụ án ông Hải không có quan điểm về việc nuôi con, hiện tại con chung do bà L trực tiếp nuôi dưỡng và các con đều có nguyện vọng được ở với bà L. Do vậy, để đảm bảo quyền lợi của con chung nên chấp nhận yêu cầu của bà L về con chung là phù hợp với quy định tại khoản 1, 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình. Đối với các con Nguyễn Thị Thùy T và Nguyễn Thị Thanh N đã đủ 18 tuổi nên tự quyết định cuộc sống của mình.

[5] Về việc cấp dưỡng nuôi con và tài sản chung: Bà Lương Thị L có quan điểm không yêu cầu Tòa án giải quyết, ông Hải không có quan điểm về các vấn đề này nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[6] Về án phí: Bà Lương Thị L phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn pháp luật quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 4 Điều 147; khoản 2 Điều 227; khoản 1, 3 Điều 228; Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 39 của Bộ luật Dân sự;

khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 58, khoản 1, 2 Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 6 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Lương Thị L được ly hôn ông Nguyễn Văn H.

2. Về con chung: Giao con chung Nguyễn Thị Thanh M, sinh ngày 11 tháng 01 năm 2008 và Nguyễn Mạnh T, sinh ngày 03 tháng 01 năm 2014 cho bà Lương Thị L trực tiếp nuôi dưỡng. Thời hạn nuôi con tính từ ngày bản án này có hiệu lực pháp luật cho đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Đối với con chung Nguyễn Thị Thùy T, sinh ngày 27 tháng 8 năm 1999 và Nguyễn Thị Thanh N, sinh ngày 21 tháng 6 năm 2003 đã đủ 18 tuổi nên tự quyết định cuộc sống của mình.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về việc cấp dưỡng và tài sản chung: Không giải quyết.

4. Về án phí: Bà Lương Thị L phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm để nộp ngân sách Nhà nước, được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí bà Lương Thị L đã nộp theo Biên lai thu tiền số 0005286 ngày 01 tháng 12 năm 2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Dương, thành phố Hải Phòng.

5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

6. Về quyền yêu cầu thi hành án: Trong T hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

6
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 37/2024/HNGĐ-ST

Số hiệu:37/2024/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Dương - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về