Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 36/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 36/2021/HNGĐ-ST NGÀY 29/12/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 29 tháng 12 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ, Thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số: 155/2021/TLST- HNGĐ ngày 01 tháng 11 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 52/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 15 tháng 12 năm 2021, giữa các đương sự:

- Ngun đơn: Chị Phạm Thị Ngọc L, sinh năm 1994;

Nơi ĐKHKTT: Cụm 4, xã T, huyện Đ, Thành phố Hà Nội.

Hiện trú tại: Số nhà 19, thôn P, xã P, huyện Đ, Thành phố Hà Nội; xin giải quyết vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1992;

Nơi ĐKHKTT: Cụm 4, xã T, huyện Đ, Thành phố Hà Nội; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện và các lời khai tiếp theo, nguyên đơn là chị Phạm Thị Ngọc L trình bày - Về tình cảm: Chị kết hôn với anh Nguyễn Văn T trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ Ban nhân dân xã P, huyện Đ, Thành phố Hà Nội ngày 17/8/2012. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống hạnh phúc, đến ngày 26/3/2016 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống. Trong cuộc sống, không có tiếng nói chung, thường xuyên xảy ra cãi nhau. Cuối năm 2016, do vợ chồng không ở được với nhau nên chị đã về nhà mẹ đẻ ở, vợ chồng sống ly thân nhau từ đó cho đến nay. Nay, chị thấy tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không tiếp tục được, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh T.

- Về con chung: Vợ chồng chị có hai con chung là cháu Nguyễn Gia Linh, sinh ngày 27/9/2012 và cháu Nguyễn Gia Hân, sinh ngày 11/5/2015, hiện 02 cháu đang ở với anh T. Khi ly hôn, chị xin được nuôi cả 02 cháu Linh và cháu Hân. Không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung, công sức với hai bên gia đình: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

+ Về nợ chung: Không có;

* Bị đơn là anh Nguyễn Văn T, được Toà án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng anh T đều vắng mặt, không lý do, vì vậy không lấy được lời khai của anh T - Tại Biên bản xác minh với Công an xã T, huyện Đ, Thành phố Hà Nội thể hiện: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1992, có ĐKHKTT tại: Cụm 4, xã T, huyện Đ, Thành phố Hà Nội, hiện anh T đang sinh sống tại địa phương, không chuyển khẩu, cắt khẩu đi đâu.

- Tại Biên bản làm việc với Hội phụ nữ xã T thể hiện: Chị Phạm Thị Ngọc L có đơn xin ly hôn anh Nguyễn Văn T. Tuy nhiên khi nộp đơn ly hôn thì vợ chồng anh T, Chị Lkhông qua hòa giải tại cơ sở. Vì vậy, Hội phụ nữ xã không nắm được nguyên nhân mâu thuẫn, cũng như tình trạng hôn nhân giữa anh T và Chị Lnhư thế nào. Nay Chị Lxin ly hôn, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người phụ nữ.

- Tại Biên bản làm việc với Phòng Lao động Thương binh - Xã hội huyện Đ thể hiện: Chị Lvà anh T đều có chỗ ở ổn định, có công việc, thu nhập đủ sống. Nếu Chị Lvà anh T không thể chung sống cùng nhau, mà phải ly hôn, đề nghị Tòa án nhân dân huyện Đ, Thành phố Hà Nội xem xét, giải quyết về quyền nuôi con chung theo quy định của pháp luật, đảm bảo quyền và lợi ích của cháu Linh và cháu Hân, không làm ảnh hưởng đến tâm lý của trẻ.

- Tại Biên bản lấy lời khai ngày 15/11/2021, ông Nguyễn Văm Minh là bố đẻ anh Nguyễn Văn T trình bày: Ông là bố đẻ của anh Nguyễn Văn T, sau khi anh T và Chị Lkết hôn, thì Chị Lvề chung sống cùng gia đình ông. Đến năm 2016 vợ chồng anh T, Chị Lxảy ra mâu thuẫn nên Chị Lđã về nhà mẹ đẻ ở. Hiện chỉ có anh T ở cùng ông và gia đình, còn Chị Lkhông không ở cùng. Khi Tòa án gửi các giấy tờ về cho anh T thì gia đình ông đã nhận được nhưng vì bận đi làm nên anh T không đến Tòa án làm việc được. Nay Chị Lxin ly hôn, ông đề nghị Tòa án xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đ tại phiên tòa phát biểu ý kiến: Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã tuân thủ theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Quan điểm giải quyết vụ án: Về yêu cầu xin ly hôn của Nguyên đơn. Xét thấy tình cảm của anh T và Chị Lkhông còn, anh chị phát sinh mâu thuẫn đã lâu, sống ly thân nhiều năm (từ năm 2016 đến nay), mục đích hôn nhân không đạt được, căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình, đủ căn cứ chấp nhận đơn khởi kiện ly hôn của chị Phạm Thị Ngọc L, đề nghị Hội đồng xét xử, xử cho Chị Lđược ly hôn anh T.

Về con chung: Anh chị có 02 con chung là cháu Nguyễn Gia Linh, sinh ngày 27/9/2012 và cháu Nguyễn Gia Hân, sinh ngày 11/5/2015, hiện các cháu đang ở với anh T. Cháu Linh đã đủ 07 tuổi có nguyện vọng được ở với mẹ. Chị Lxin được nuôi con, đề nghị Hội đồng xét xử, xử, giao cháu Nguyễn Gia Linh cho Chị Ltrực tiếp nuôi dưỡng. Giao cháu Nguyễn Gia Hân cho anh T tiếp tục nuôi dưỡng. Chị Lkhông yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho đến khi có yêu cầu.

Về tài sản chung, công sức với hai bên gia đình: Chị Lkhông yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

Về nợ chung: Không có;

Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Nguyên đơn là chị Phạm Thị Ngọc L có đơn xin ly hôn, giải quyết nuôi con khi ly hôn với anh Nguyễn Văn T. Anh T có địa chỉ tại xã T, huyện Đ, Thành phố Hà Nội. Xác định quan hệ tranh chấp là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đ theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 3 Điều 36, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã mở các phiên hòa giải nhưng không hòa giải được, lý do Bị đơn đều vắng mặt, nên Tòa án nhân dân huyện Đ đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử theo đúng quy định của pháp luật.

Nguyên đơn có đơn xin giải quyết vắng mặt. Bị đơn đã được Toà án triệu tập hợp lệ lần hai những vắng mặt không có lý do, Toà án xét xử vắng Nguyên đơn, Bị đơn là đúng quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2]. Về nội dung [2.1]. Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Chị Phạm Thị Ngọc L và anh Nguyễn Văn T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký ngày 17/8/2000 tại Ủy Ban nhân dân xã P, huyện Đ, Thành phố Hà Nội, vì vậy xác định là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại khoản 1 Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc, đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, vợ chồng đã ly thân nhau từ năm 2016 đến nay. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần mở phiên hòa giải nhưng anh T đều không có mặt. Xét thấy, anh T, Chị Lsống ly thân từ rất lâu, không còn quan tâm đến nhau. Hai bên gia đình đã khuyên bảo, hòa giải nhiều, nhưng vợ chồng vẫn không đoàn tụ được. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định mâu thuẫn giữa Chị Lvà anh T là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nên xử cho Chị Lđược ly hôn anh T là phù hợp với quy định tại Điều 51 và Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.2]. Về con chung: Chị Lvà anh T có hai con chung là cháu Nguyễn Gia Linh, sinh ngày 27/9/2012 và cháu Nguyễn Gia Hân, sinh ngày 11/5/2015. Khi ly hôn Chị Lxin được cả hai cháu. Xét thấy anh chị có 02 con, hiện 02 cháu đều đang ở với anh T. Anh T khỏe mạnh bình thường, có khả năng lao động. Quá trình giải quyết vụ án, cháu Linh có ý kiến nếu bố mẹ ly hôn, cháu xin được ở với mẹ, vì vậy, sẽ xử, giao Chị Lvà anh T mỗi người nuôi 01 con chung. Giao cháu Nguyễn Gia Linh cho Chị Lnuôi dưỡng; giao cháu Nguyễn Gia Hân cho anh T nuôi dưỡng, là đúng quy định tại Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Lkhông yêu cầu nên tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho đến khi chị Lan, anh T có yêu cầu mới hoặc có quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.

Chị Phạm Thị Ngọc L Anh và Nguyễn Văn T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

[2.3]. Về tài sản chung, công sức với hai bên gia đình: Chị Lkhông yêu cầu nên Tòa án không giải quyết.

- Về nợ: Không có;

[3]. Về án phí: Chị Lphải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 51, 56, 81, 82, 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ các Điều 28, 35, 40; khoản 4 Điều 147; khoản 1, 2 Điều 227; các Điều 271, 273, 278 và Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử 1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phạm Thị Ngọc L về việc xin ly hôn anh Nguyễn Văn T.

Chị Phạm Thị Ngọc L được ly hôn anh Nguyễn Văn T.

2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Gia Linh, sinh ngày 27/9/2012 cho chị Phạm Thị Ngọc L trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi cháu Linh đủ 18 tuổi hoặc có quyết định khác của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.

Giao cháu Nguyễn Gia Hân, sinh ngày 11/5/2015 cho anh Nguyễn Văn T trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi cháu Hân đủ 18 tuổi hoặc có quyết định khác của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Phạm Thị Ngọc L không yêu cầu nên tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho đến khi có yêu cầu mới hoặc có quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.

Chị Phạm Thị Ngọc L và anh Nguyễn Văn T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung, công sức với hai bên gia đình: Chị Phạm Thị Ngọc L không yêu cầu nên Tòa án không giải quyết.

4. Về nợ: Không có;

5. Về án phí: Chị Phạm Thị Ngọc L phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào số tiền 300.000 đồng đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0002690 ngày 01 tháng 11 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ, Thành phố Hà Nội.

6. Về quyền kháng cáo: Chị Phạm Thị Ngọc L và anh Nguyễn Văn T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

162
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 36/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:36/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sóc Sơn - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về