Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 33/2024/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 33/2024/HNGĐ-ST NGÀY 23/04/2024 VỀ LYN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 23 tháng 4 năm 2024 tại trụ sở Toà án nhân dân Thành phố Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 74/2023/ TLST- HNGĐ ngày 20 tháng 11 năm 2023 về “Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn” theo “Quyết định đưa vụ án ra xét xử” số 69/2024/QĐXX-HNGĐ ngày 22 tháng 3 năm 2024; “Quyết định hoãn phiên toà” số 54/2024/QĐST-HNGĐ ngày 05 tháng 4 năm 2024 và “Thông báo thay thế thành viên những người tiến hành tố tụng” số 16/2024/TB-TA ngày 12/4/2024 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Nguyễn Văn G, sinh năm 1990 (Có mặt) ĐKTT: TT, phường ĐT, thành phố TH, tỉnh TH Nơi ở hiện tại: Nhà liền kề … MBQH …, phường ĐT, thành phố TH, tỉnh TH

- Bị đơn: Chị Lê Thị H, sinh năm 1989 (Vắng mặt) ĐKTT: TT, phường ĐT, thành phố TH, tỉnh TH Nơi ở hiện tại: Nhà liền kề … MBQH …, phường ĐT, thành phố TH, tỉnh TH

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, bản tự khai và quá trình giải quyết vụ án, anh Nguyễn Văn G trình bày:

Về hôn nhân: Anh và chị Lê Thị H tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Đông Thọ, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa ngày 22/10/2012. Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do bất đồng về quan điểm sống. Chị H thường chửi bới lăng mạ anh. Mâu thuẫn ngày càng gay gắt nên vợ chồng sống ly thân từ tháng 8/2022 đến nay việc ai người đó làm, không còn quan tâm đến cuộc sống của nhau.

Nay anh xác định vợ chồng mâu thuẫn trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được vì vậy anh đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa giải quyết cho anh ly hôn chị Lê Thị H.

Về con chung: Anh G và chị H có 01 con chung là Nguyễn Văn Đại L, sinh ngày 14/10/2013. Từ khi vợ chồng ly thân con ở với chị H. Nay ly hôn anh đề nghị giao cho chị H trực tiếp nuôi con, anh cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị H 2.000.000đ/tháng; Về tài sản chung và nợ chung: Anh G không yêu cầu Toà án giải quyết Về phía bị đơn Lê Thị H: Tại bản tự khai, biên bản lấy lời khai và phiên hòa giải chị H khai thống nhất với lời khai của anh G về thời gian, điều kiện kết hôn; Về thực trạng mâu thuẫn vợ chồng. Về nguyên nhân mâu thuẫn theo chị là do anh G không chung thủy, có quan hệ ngoại tình với người phụ nữ khác dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi chửi và nhiều lần đánh nhau. Mâu thuẫn gay gắt nên vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 8/2022 đến nay, chấm dứt quan hệ về tình cảm và kinh tế. Bản thân chị cũng thấy rằng vợ chồng không ai bỏ được cái tôi của mình để hòa hợp. Song chị không đồng ý ly hôn vì chị vẫn còn tình cảm với anh G và muốn con có gia đình đầy đủ bố mẹ; Về con chung: Chị thống nhất có một con chung như anh G trình bày, nếu phải ly hôn chị xin được trực tiếp nuôi con chung và yêu cầu anh G phải cấp dưỡng nuôi con một lần là 500.000.000đ; Về tài sản chung và nợ chung: Chị H không yêu cầu Toà án giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 19/01/2024 cháu Nguyễn Văn Đại L có nguyện vọng xin được ở với mẹ nếu bố mẹ ly hôn.

Ngày 15/01/2024 Tòa án tiến hành xác minh tại địa phương (phường ĐT, thành phố TH) kết quả xác định: Sau khi kết hôn, anh G chị H chung sống tại phường ĐT, thành phố TH; Quá trình chung sống anh chị phát sinh mâu thuẫn, từ năm 2022 anh chị sống ly thân; Anh chị có 01 con chung là Nguyễn Văn Đại L, sinh ngày 14/10/2013 cháu hiện đang sống cùng với mẹ; Về tài sản chung nợ chung của anh chị địa phương không rõ; Việc anh chị ly hôn đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hoà giải ngày 18/01/2024 anh G chị H thống nhất về tài liệu chứng cứ đã công khai; Anh G kiên quyết xin ly hôn, chị H không đồng ý ly hôn; Trường hợp phải ly hôn chị H xin nuôi con và yêu cầu anh G cấp dưỡng nuôi con một lần là 500.000.000đ; Anh G không đồng ý cấp dưỡng 1 lần vì không đủ điều kiện, anh xin cấp dưỡng mỗi tháng 2.000.000đ. Tại phiên hoà giải ngày 19/3/2024 anh G có mặt, chị H không có mặt nên Toà án không tiến hành hoà giải được.

Ngày 22/3/2024, Tòa án nhân dân TP. Thanh Hóa có “Quyết định đưa vụ án ra xét xử”, quyết định đã được tống đạt hợp lệ cho anh G, chị H. Tại phiên tòa ngày 05/4/2024 anh G có mặt, chị H vắng mặt lần thứ nhất, không có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Do vậy HĐXX quyết định hoãn phiên tòa và ấn định thời gian mở lại phiên tòa vào 13 giờ 30 phút ngày 23/4/2024. Quyết định hoãn phiên toà đã được tống đạt hợp lệ cho anh G, chị H.

Tại phiên tòa hôm nay, chị Nguyễn Thị H vắng mặt lần thứ hai không có lý do. Anh Nguyễn Văn G giữ nguyên quan điểm đề nghị HĐXX giải quyết cho anh ly hôn chị H; Về con chung anh đề nghị giao cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, anh cấp dưỡng nuôi con cùng chị H 3.000.000đ/tháng; Về tài sản chung và nợ chung anh G không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ý kiến của đại diện VKS: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, thư ký và HĐXX và anh G kể từ khi toà án thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm HĐXX nghị án đã tuân thủ đúng quy định; Việc chấp hành pháp luật của chị H chưa đầy đủ quy định. Tại phiên tòa hôm nay, chị H vắng mặt lần thứ hai không có lý do, anh G đề nghị xét xử vụ án theo quy định của pháp luật. Đại diện VKS đề nghị HĐXX căn cứ Điều 227-BLTTDS xét xử vắng mặt chị H; Về nội dung, đại diện VKS đề nghị HĐXX: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh G; Giao con chung của anh G chị H cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, anh G cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị H 3.000.000đ/tháng kể từ khi ly hôn đến khi con thành niên; Án phí: Anh G phải chịu án phí ly hôn và án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được kiểm tra, xem xét tại phiên toà; Kết quả tranh tụng tại phiên tòa; Ý kiến của người tham gia tố tụng, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Anh Nguyễn Văn G khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp về ly hôn, nuôi con chung khi ly hôn; Nơi cư trú của bị đơn tại thành phố Thanh Hóa, do đó Tòa án nhân dân TP.Thanh Hóa thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1Điều 39 - Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa hôm nay chị H vắng mặt lần thứ hai không có lý do HĐXX căn cứ Điều 227 - BLTTDS để xét xử vắng mặt chị H.

[2] Về nội dung:

[2.1]Về hôn nhân: Anh Nguyễn Văn G và chị Lê Thị H tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Đông Thọ, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa ngày 22/10/2012, như vậy là hôn nhân hợp pháp.

Quá trình chung sống, anh chị phát sinh mâu thuẫn trầm trọng nên đã sống ly thân từ tháng 8/2022 đến nay, chấm dứt quan hệ về tình cảm và kinh tế. Nay anh G xác định mâu thuẫn giữa anh và chị H trầm trọng không thể khắc phục được; Cuộc sống chung không hạnh phúc; Mục đích hôn nhân không đạt được nên anh kiên quyết ly hôn chị H. Về phía chị H, cũng xác định vợ chồng mâu thuẫn trầm trọng, thường xuyên cãi chửi thậm chí đánh nhau; Chị và anh G đều không thể bỏ được cái tôi của mình để hòa hợp; Bản thân chị cũng không có biện pháp nào khắc phục mâu thuẫn để vợ chồng đoàn tụ. Song chị vẫn còn tình cảm với anh G và muốn con có gia đình đầy đủ bố mẹ nên chị không đồng ý ly hôn.

HĐXX xét, mong muốn đoàn tụ gia đình của chị H là chính đáng. Song mâu thuẫn giữa chị H và anh G đã thực sự trầm trọng. Vợ chồng đã sống ly thân, bỏ mặc nhau từ tháng 8/2022 đến nay mà không có biện pháp khắc phục mâu thuẫn để đoàn tụ; Bản thân chị H cũng xác định vợ chồng không ai bỏ được cái tôi của mình để hòa hợp; Quá trình giải quyết vụ án, Toà án đã nhiều lần hoà giải anh G vẫn kiên quyết ly hôn. Yêu cầu ly hôn của anh G là có cơ sở và hoàn toàn tự nguyện, HĐXX căn cứ quy định tại khoản 1 điều 56 - Luật HN&GĐ chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh G.

[2.2] Về con chung: Anh Nguyễn Văn G và chị Lê Thị H có 01 con chung là Nguyễn Văn Đại L, sinh ngày 14/10/2013. Từ khi vợ chồng sống ly thân con ở với chị H. Nay ly hôn anh G đề nghị giao con cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng; Bản thân chị H cũng có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con: Cháu L cũng có nguyện vọng được ở với mẹ nếu bố mẹ ly hôn.

Xét việc giao con cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, anh G cấp dưỡng nuôi con là đảm bảo tốt nhất quyền lợi của con, tránh được những xáo trộn không cần thiết cho con, phù hợp với quan điểm, nguyện vọng của anh chị và con, phù hợp quy định tại Điều 81, 82 Luật HN&GĐ nên HĐXX chấp nhận.

[2.3] Về phần cấp dưỡng nuôi con: Chị Lê Thị H yêu cầu anh G cấp dưỡng nuôi con một lần là 500.000.000đ, anh G không đồng ý vì không đủ điều kiện để cấp dưỡng một lần như yêu cầu của chị H. Yêu cầu trên của chị H là không có căn cứ do đó HĐXX không chấp nhận. Việc anh G tự nguyện cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 3.000.000đ là phù hợp với quy định tại Điều 81, 82 Luật HN&GĐ nên HĐXX chấp nhận.

[2.4] Về tài sản chung, nợ chung: Anh G, chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên HĐXX không xét.

[3] Về án phí: Anh Nguyễn Văn G là nguyên đơn và có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con nên phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm và án phí cấp dưỡng theo quy định tại Điều 6; Điểm a khoản 5, 6 Điều 27 Nghị Quyết 326/2016/ UBTVQH14 quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án.

Các đương sự có quyền kháng cáo theo luật định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; Điều 271; Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Khoản 1 Điều 56; Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình Điều 6; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử: Chấp nhận yêu cầu của anh Nguyễn Văn G Về hôn nhân: Xử cho anh Nguyễn Văn G ly hôn chị Lê Thị H Về con chung: Giao cháu Nguyễn Văn Đại L, sinh ngày 14/10/2013 là con chung của anh G chị H, cho chị Lê Thị H trực tiếp nuôi dưỡng; Anh Nguyễn Văn G có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị H 3.000.000đ (Ba triệu đồng) một tháng kể từ ngày 23/4/2024 đến khi con đủ 18 tuổi.

Anh Nguyễn Văn G có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

Về tài sản chung và nợ chung: Đương sự không có yêu cầu giải quyết nên HĐXX không xét.

Về án phí: Anh Nguyễn Văn G phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm và 300.000đ án phí cấp dưỡng nuôi con nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2022/0002933 ngày 16/11/2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa. Anh G còn phải nộp 300.000đ án phí.

Về quyền kháng cáo: Anh Nguyễn Văn G có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Chị Lê Thị H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7,9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hịên theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

14
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 33/2024/HNGĐ-ST

Số hiệu:33/2024/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/04/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về