Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 33/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 33/2021/HNGĐ-ST NGÀY 22/12/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 22 tháng 12 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ, Thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 141/2021/TLST- HNGĐ ngày 20 tháng 10 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 54/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 15 tháng 12 năm 2021, giữa các đương sự:

- Ngun đơn: Chị Phạm Thị N, sinh năm 1993; trú quán: Số 9 ngõ 80 phố P, thị trấn P, huyện Đ, thành phố Hà Nội; có mặt;

- Bị đơn: Anh Nguyễn Duy H, sinh năm 1990; trú quán: Số 9 ngõ 80 phố P, thị trấn P, huyện Đ, thành phố Hà Nội; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện và các lời khai tiếp theo, nguyên đơn là chị Phạm Thị N trình bày:

- Về tình cảm: Chị kết hôn với anh Nguyễn Duy H trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân thị trấn P, huyện Đ, Thành phố Hà Nội ngày 19/10/2017. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc, đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không thể nói chuyện, chia sẻ với nhau trong cuộc sống. Gia đình nội ngoại đã hòa giải nhưng tình cảm vợ chồng không hàn gắn được. Ngày 02/7/2021 vợ chồng cãi nhau, chị đã xin phép bố mẹ chồng về nhà mẹ đẻ ở, vợ chồng ly thân nhau từ đó. Nay, chị thấy tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không tiếp tục được, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh H.

- Về con chung: Vợ chồng chị có một con chung là cháu Nguyễn Linh Nhi, sinh ngày 28/01/2019, cháu đang còn nhỏ rất cần có sự chăm sóc của mẹ, ly hôn, chị xin được nuôi con. Hiện tại chị có chỗ ở, công việc và thu nhập ổn định, có điều kiện tốt để nuôi con.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung là 5.000.000 đồng/ 01 tháng, cho đến khi cháu Nhi đủ 18 tuổi.

- Về tài sản chung, công sức với hai bên gia đình: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Không có.

* Bị đơn là anh Nguyễn Duy H trình bày - Về tình cảm: Anh và chị Phạm Thị N kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn P, huyện Đ, Thành phố Hà Nội ngày 19/10/2017. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc. Trong thời gian chung sống, vợ chồng có những mâu thuẫn nhỏ trong cuộc sống, không đáng phải ly hôn. Ngày 02/7/2021 chị Ncó nói chuyện với anh về vấn đề ly hôn và trong ngày hôm đấy chị Nđã bỏ về nhà mẹ đẻ ở. Từ khi chị Nvề nhà mẹ đẻ ở, anh có gặp, nói chuyện và khuyên chị Nquay về đoàn tụ vợ chồng nhưng chị Nkhông đồng ý. Nay, chị Nxin ly hôn, anh thấy tình cảm vợ chồng vẫn còn, đề nghị Tòa án hòa giải để vợ chồng về đoàn tụ. Trường hợp chị Nvẫn kiên quyết xin ly hôn, anh đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

- Về con chung: Vợ chồng có một con chung là cháu Nguyễn Linh Nhi, sinh ngày 28/01/2019. Nếu ly hôn, anh xin được nuôi con, vì anh có điều kiện nuôi con tốt hơn chị Nhung. Anh có chỗ ở, công việc ổn định, nội ngoại hai bên có đầy đủ để chăm sóc con nhỏ.

Về cấp dưỡng nuôi con: Anh yêu cầu chị Ncấp dưỡng nuôi con 2.000.000 đồng/ 01 tháng, nếu trường hợp Tòa án giao con cho chị Nnuôi thì anh đồng ý cấp dưỡng nuôi con cho chị Nlà 2.000.000 đồng/ 01 tháng.

- Tài sản chung, công sức với hai bên gia đình: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Không có.

- Tại Biên bản làm việc với Hội phụ nữ thị trấn P thể hiện: Anh H và chị Nsinh sống trên địa bàn thị trấn P. Tuy nhiên khi nộp đơn ly hôn thì vợ chồng anh H, chị Nkhông qua hòa giải tại cơ sở. Vì vậy, Hội phụ nữ không nắm được nguyên nhân mâu thuẫn, cũng như tình trạng hôn nhân giữa chị Nvà anh H như thế nào. Nay chị Nxin ly hôn, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người phụ nữ và cháu nhỏ.

- Tại Biên bản làm việc với Phòng Lao động thương binh và Xã hội huyện Đ thể hiện: Chị Nvà anh H đều có chỗ ở ổn định, có công việc, thu nhập đủ sống. Nếu chị Nvà anh H không thể chung sống cùng nhau mà phải ly hôn, đề nghị Tòa án nhân dân huyện Đ xem xét giải quyết quyền nuôi con chung theo quy định của pháp luật, đảm bảo quyền và lợi ích của cháu Nhi, không làm ảnh hưởng đến tâm lý của trẻ.

Tại phiên tòa: Chị Ngiữ nguyên yêu cầu khởi kiện, được ly hôn anh H. Về con chung: chị Nxin nuôi con và yêu cầu anh H cấp dưỡng 5.000.000 đồng/tháng. Về tài sản: Không yêu cầu Tòa án giải quyết; về nợ chung: Không có.

Anh H không đồng ý ly hôn. Về con chung: anh H xin nuôi con, yêu cầu chị Ncấp dưỡng 2.000.000 đồng/tháng. Về tài sản: Không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đ tại phiên tòa phát biểu ý kiến: Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã tuân thủ theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Quan điểm giải quyết vụ án: Quá trình điều tra thu thập chứng cứ đã chứng minh được mâu thuẫn giữa chị Nvà anh H tới mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, đề nghị Hội đồng xét xử, xử cho chị Nđược ly hôn anh H là phù hợp với quy định tại Điều 51 và Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

Về con chung: Giao cháu Nguyễn Linh Nhi, sinh ngày 28/01/2019 cho chị Nnuôi dưỡng. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Anh H cấp dưỡng nuôi con cho chị Ntheo quy định của pháp luật. Thời gian cấp dưỡng từ tháng 01 năm 2022 cho đến khi cháu Nhi đủ 18 tuổi.

Về tài sản chung, công sức với hai bên gia đình: Chị Nvà anh H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Chị Nvà anh H xác định không có.

Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Nguyên đơn là chị Phạm Thị N có đơn xin ly hôn, giải quyết nuôi con khi ly hôn với anh Nguyễn Duy H. Anh H có địa chỉ tại thị trấn P, huyện Đ, Thành phố Hà Nội. Xác định quan hệ tranh chấp là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đ theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 3 Điều 36, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã mở các phiên hòa giải nhưng các đương sự không đoàn tụ và không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án nên Tòa án nhân dân huyện Đ đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.

[2]. Về nội dung

[2.1]. Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Quan hệ hôn nhân giữa chị Phạm Thị N và anh Nguyễn Duy H trên cơ sở kết hôn tự nguyện, có đăng ký vào ngày 19/10/2017 tại Ủy ban nhân dân thị trấn P, huyện Đ, Thành phố Hà Nội, vì vậy xác định là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại khoản 1 Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, cuộc sống vợ chồng không có hạnh phúc nên vợ chồng đã sống ly thân với nhau. Quá trình giải quyết vụ án, chị Nvà anh H đều thừa nhận vợ chồng đã sống ly thân, không còn quan tâm đến nhau. Tòa án cũng như hai bên gia đình đã khuyên bảo, hòa giải nhiều lần nhưng vợ chồng vẫn không đoàn tụ được. Tại phiên tòa, anh H có ý kiến xin đoàn tụ nhưng anh không đưa ra giải pháp nào. Chị Ncó ý kiến, nếu Tòa án không cho chị ly hôn thì vợ chồng vẫn tiếp tục sống ly thân. Hội đồng xét xử, xét thấy mâu thuẫn giữa chị Nvà anh H đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, chấp nhận đơn khởi kiện của chị Nhung, xử cho chị Nđược ly hôn anh H là phù hợp với quy định tại Điều 51 và Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.2]. Về con chung: Chị Nvà anh H có một con chung là cháu Nguyễn Linh Nhi, sinh ngày 28/01/2019. Khi ly hôn cả chị Nvà anh H đều có nguyện vọng xin được nuôi con, đây đều là nguyện vọng chính đáng của anh chị. Cả anh H và chị Nđều có điều kiện để nuôi con tốt nhưng con chung chỉ có một cháu. Hội đồng xét xử thấy rằng, cháu Nhi, sinh ngày 28/01/2019, hiện còn nhỏ, dưới 36 tháng tuổi. Căn cứ vào khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân gia đình, giao cháu Nhi cho chị Ntrực tiếp nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Nyêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 5.000.000 đồng. Anh H chỉ đồng ý cấp dưỡng 2.000.000 đồng/tháng. Xét thấy, anh H có việc làm, thu nhập 22.500.000 đồng/tháng, ổn định, vì vậy sẽ buộc anh H phải cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 3.000.000 đồng là phù hợp.

Anh Nguyễn Duy H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

[2.3]. Về tài sản chung, công sức với hai bên gia đình: Chị Nvà anh H không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

Về nợ chung: Chị Nvà anh H xác định không có.

[3]. Về án phí: Chị Nphải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 51, 56, 81, 82, 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ các Điều 28, 35 và Điều 40; khoản 4 Điều 147; các Điều 271, 273, 278 và Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phạm Thị N về việc xin ly hôn anh Nguyễn Duy H.

Xử chị Phạm Thị N được ly hôn anh Nguyễn Duy H.

2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Linh Nhi, sinh ngày 28/01/2019 cho chị Phạm Thị N trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi cháu Nhi đủ 18 tuổi hoặc có quyết định khác của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.

Về cấp dưỡng nuôi con: Buộc anh Nguyễn Duy H phải cấp dưỡng cho chị Phạm Thị N 3.000.000 đồng/01 tháng (ba triệu đồng/một tháng) để nuôi cháu Nguyễn Linh Nhi. Thời gian cấp dưỡng từ tháng 01 năm 2022 cho đến khi cháu Nhi đủ 18 tuổi hoặc có quyết định khác của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.

Anh Nguyễn Duy H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung, công sức với hai bên gia đình: Chị Phạm Thị N và anh Nguyễn Duy H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về nợ chung: Chị Nvà anh H xác định không có.

5. Về án phí: Chị Phạm Thị N phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào số tiền 300.000 đồng đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số 000258 ngày 20 tháng 10 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ, Thành phố Hà Nội.

Anh Nguyễn Duy H phải nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí cấp dưỡng nuôi con.

6. Về quyền kháng cáo: Chị Phạm Thị N và anh Nguyễn Duy H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

182
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 33/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:33/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ba Vì - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về