Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 32/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀM TÂN, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 32/2021/HNGĐ-ST NGÀY 29/09/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 29 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hàm Tân, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình sơ thẩm thụ lý số 56/2021/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 3 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 25/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 29 tháng 6 năm 2021 và các Quyết định hoãn phiên tòa số 17/QĐST-HNGĐ ngày 20 tháng 7 năm 2021, Quyết định hoãn phiên tòa số 18/QĐST-HNGĐ ngày 10 tháng 8 năm 2021và Quyết định hoãn phiên tòa số 21/QĐST-HNGĐ ngày 31 tháng 8 năm 2021, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Vũ Thị Kim T, sinh năm 1984 (vắng mặt).

Địa chỉ: Thôn T, xã S, huyện HT, tỉnh Bình Thuận. Chỗ ở hiện nay: Ấp Tr, xã X, huyện XL, tỉnh Đồng Nai

Bị đơn: Anh Trần Ngọc D, sinh năm 1981 (vắng mặt). Địa chỉ: Thôn T, xã S, huyện HT, tỉnh Bình Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 03/3/2021 và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Vũ Thị Kim T trình bày:

Chị và anh Trần Ngọc D tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn tại UBND năm 2005 tại UBND phường Xuân Tâm, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai. Trong thời gian sống chung với nhau vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cãi vả và đánh đập nhau. Nguyên nhân là do anh D đam mê cờ bạc, không quan tân gì đến vợ con, mặc dù hai bên gia đình đã nhiều lần khuyên nhủ nhưng anh D vẫn không thay đổi. Từ năm 2018 đến nay, vợ chồng không còn chung sống với nhau, không quan tâm gì đến nhau nữa Nay tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn được nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh D.

Về con chung: Trong quá trình sống chung chị và anh D có 02 con chung là Trần Thảo M, sinh ngày 01/01/2007 và Trần Đình H, sinh ngày 17/3/2015, khi ly hôn, chị có nguyện vọng trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng các con chung, yêu cầu anh D cấp dưỡng tiền nuôi con mỗi tháng 1.000.000đồng cho mỗi cháu, từ khi vợ chồng không sống chung với nhau nữa thì các con chung vẫn sống với chị, anh D cũng không chăm sóc gì các con.

Về tài sản chung, nợ chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Anh Trần Ngọc D đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập, thông báo mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa và các văn bản tố tụng khác nhưng anh D không đến Tòa án để làm việc, tham dự phiên tòa cũng như cung cấp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Tân tham gia phiên tòa:

- Về thủ tục tố tụng: Tòa án nhân dân huyện Hàm Tân đã tiến hành thụ lý, chuẩn bị xét xử và xét xử vụ án đúng trình tự thủ tục luật định. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, những người tiến hành tố tụng khác, nguyên đơn đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, bị đơn không chấp hành theo quy định.

- Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, có đủ căn cứ để xác định chị Vũ Thị Kim T và anh Trần Ngọc D tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn tại UBND năm 2005 tại UBND xã X, huyện XL, tỉnh Đồng Nai nên đây là hôn nhân hợp pháp. Trong thời gian sống chung thì anh chị có nhiều mâu thuẫn, vợ chồng đã xảy ra tình trạng bạo lực gia đình; từ năm 2018 đến nay anh D và chị T không còn chung sống với nhau nữa nên đã làm cho tình trạng hôn nhân giữa chị T và anh D đã trầm trọng, không thể hàn gắn được, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị T; về con chung giao cháu Trần Thảo M, sinh ngày 01/01/2007 và Trần Đình H, sinh ngày 17/3/2015 cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, anh D phải cấp dưỡng nuôi con chung; về tài sản chung, nợ chung chị T không yêu cầu nên không đề nghị xem xét; về án phí, đương sự phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của đương sự, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Tân tham gia phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Về quan hệ pháp luật có tranh chấp và thẩm quyền giải quyết của Tòa án: HĐXX thấy rằng đây là tranh chấp “Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn” được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Hàm Tân theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Quá trình giải quyết vụ án anh Trần Ngọc D đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần mà vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng, chị Vũ Thị Kim T vắng mặt nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử theo quy định.

Xét yêu cầu của nguyên đơn:

[1]. Về quan hệ hôn nhân:

Chị Vũ Thị Kim T và anh Trần Ngọc D tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn với nhau tại UBND năm 2005 tại UBND xã Xuân Tâm, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai đúng theo quy định nên đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ.

Căn cứ vào các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì trong cuộc sống chung vợ chồng giữa chị T và anh D thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cải vã và đánh đập nhau. Nguyên nhân là do anh D đam mê cờ bạc, không chăm lo đến gia đình. từ năm 2018 đến nay vợ chồng không còn chung sống với nhau, không quan tâm, chăm sóc gì đến nhau nữa. Theo quy định tại khoản 1 Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình thì “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẻ, thực hiện công việc chung trong gia đình”.

Quá trình giải quyết vụ án, anh Trần Ngọc D đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng anh D không cung cấp các tài liệu, chứng cứ; không đến Tòa án theo giấy triệu tập để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; cũng như không có biện pháp nào để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Như vậy, anh D đã từ bỏ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Với những căn cứ nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy giữa chị T và anh D đã xảy ra hành vi bạo lực gia đình, vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ chồng, làm cho hôn nhân giữa chị T và anh D đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị T.

[2] Về con chung: Chị T và anh D có 02 con chung là Trần Thảo M, sinh ngày 01/01/2007 và Trần Đình H, sinh ngày 17/3/2015. Khi ly hôn, chị T có nguyện vọng trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng các con chung, yêu cầu anh D cấp dưỡng tiền nuôi con mỗi tháng 1.000.000đồng cho mỗi con chung. Hiện nay chị đang làm công nhân tại công ty may, thu nhập bình quân mỗi tháng là 7.000.000đ nên đủ khả năng để nuôi con và từ trước cho đến nay anh D không quan tâm, chăm sóc con cái, hơn nữa tại biên bản lấy lời khai ngày 18/3/2021 thì nguyện vọng của cháu Trần Thảo M là được ở với mẹ. Quá trình giải quyết vụ án anh D không đến Tòa án để trình bày ý kiến của mình về việc nuôi con. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ yêu cầu của chị T và nguyện vọng của con, giao cháu Trần Thảo M, sinh ngày 01/01/2007 và Trần Đình H, sinh ngày 17/3/2015 cho chị T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng là phù hợp.

Đối với yêu cầu cấp dưỡng nuôi con: Mặc dù chị T đủ khẳ năng để chăm sóc, nuôi dưỡng con chung, tuy nhiên theo quy định tại khoản 2 Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình thì: “Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con”, hơn nữa để đảm bảo điều kiện đầy đủ cho sự phát triển của các cháu thì anh D phải có nghĩa vụ đối với con chung. Để đảm bảo nhu cầu thiết yếu của các con chung và với mức sống như hiện nay thì mức yêu cầu cấp dưỡng mỗi tháng 1.000.000đồng cho mỗi con chung là phù hợp nên cần được chấp nhận.

[3] Về tài sản chung, nợ chung: Đương sự không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về án phí: Đương sự phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì những lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

- Khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 19, Điều 51, Điều 53, Điều 56, Điều 59, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84, Điều 110 và Điều 116 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Vũ Thị Kim T.

- Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Vũ Thị Kim T và anh Trần Ngọc D.

- Về con chung: Giao cháu Trần Thảo M, sinh ngày 01/01/2007 và Trần Đình H, sinh ngày 17/3/2015 cho chị Vũ Thị Kim T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.

Anh Trần Ngọc D phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng là 1.000.000đồng cho mỗi cháu cho đến khi cháu Trần Thảo M và Trần Đình H đủ 18 tuổi và có khả năng lao động..

Anh Trần Ngọc D có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung mà không ai được cản trở.

Vì quyền lợi của con, các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con cũng như cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

2. Về án phí: Chị Vũ Thị Kim T phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tiền số 0009443 ngày 11/3/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hàm Tân.

Anh Trần Ngọc D phải chịu 300.000đồng tiền án phí cấp dưỡng nuôi con.

3. Án xử công khai, các đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 32/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:32/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hàm Tân - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về