Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 31/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẢO THẮNG, TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 31/2022/HNGĐ-ST NGÀY 08/07/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 08 tháng 7 năm 2022 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 47/2022/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 3 năm 2022 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 31/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 03 tháng 6 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 41/2022/QĐST - HNGĐ ngày 16 tháng 6 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Lù Văn B - Sinh năm 1977.

Địa chỉ: Thôn M, xã X, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai - có mặt.

2. Bị đơn: Chị La Thị T - Sinh năm 1979.

Địa chỉ: Thôn M, xã X, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai - vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 28/02/2022 và bản tự khai ngày 03/3/2022 cũng như tại phiên tòa, anh La Văn B trình bầy: Anh và chị La Thị T kết hôn tự nguyện và có đăng ký kết hôn ngày 30/7/1996, tại UBND xã X, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai. Sau khi kết hôn vợ chồng tôi sống hạnh phúc đến tháng 8 năm 2018 thì xẩy mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình không hợp, vợ chồng bất đồng quan điểm trong làm ăn kinh tế xuất phát từ đó vợ chồng xẩy ra xô xát cãi nhau; mâu thuẫn của vợ chồng anh đã được hai bên gia đình tham gia khuyên bảo nhưng không khắc phục được. Do mâu thuẫn trầm trọng nên vợ chồng anh đã sống ly thân từ tháng 8 năm 2018 đến nay không quan tâm đến nhau. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên anh đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị La Thị T.

Về con chung: Quá trình chung sống chúng vợ chồng anh có ba con chung là cháu Lù Thị Tr, sinh ngày 01/5/1997, cháu Lù Thị C, sinh ngày 01/9/1999 và cháu Lù Chí Tg, sinh ngày 15/01/2011, hiện nay các cháu khỏe mạnh phát triển bình thường, cháu Tr và cháu C đã trưởng thành và có gia đình riêng khi ly hôn anh không yêu cầu Tòa án giải quyết, còn cháu Tg đang ở cùng anh, khi ly hôn anh có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Tg, anh không yêu cầu chị T cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Về tài sản chung: Vợ chồng anh không có tài sản chung, khi ly hôn anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về công nợ chung: Quá trình chung sống vợ chồng anh không vay nợ ai và cũng không cho ai vay nợ gì, khi ly hôn anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai của chị La Thị T (Bị đơn) ghi ngày 04/3/2022 chị La Thị T xác nhận thời gian kết hôn và nguyên nhân mâu thuẫn của vợ chồng như anh B trình bày là đúng. Do mâu thuẫn trầm trọng nên vợ chồng chị đã sống ly thân từ tháng 8 năm 2018 đến nay không quan tâm đến nhau; tuy nhiên đến nay chị muốn quay trở về đoàn tụ gia đình để cùng nhau nuôi dậy con cái, vì vậy anh B xin ly hôn với chị, quan điểm của chị không nhất trí ly hôn với anh B.

Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng chị có ba con chung là Lù Thị Tr, sinh ngày 01/5/1997, cháu Lù Thị C, sinh ngày 01/9/1999 và cháu Lù Chí Tg, sinh ngày 15/01/2011, hiện nay các cháu khỏe mạnh phát triển bình thường, cháu Tr và cháu C đã trưởng thành và có gia đình riêng, còn cháu Tg đang ở cùng anh B, vì không nhất trí ly hôn nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết việc nuôi dưỡng chăm sóc con chung; trường hợp anh B cương quyết ly hôn thì chị đề nghị Tòa án giải quyết việc nuôi dưỡng chăm sóc con chung theo quy định của pháp luật.

Về tài sản chung: Vợ chồng chị thỏa thuận tự chia, khi ly hôn chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về công nợ chung: Quá trình chung sống vợ chồng chị không vay nợ ai và cũng không cho ai vay nợ gì, khi ly hôn chị không yêu cầu Tòa án giải quyết Đối với vụ án này Toà án đã mở phiên họp công khai chứng cứ không hòa giải được về quan hệ hôn nhân và nuôi dưỡng chăm sóc con chung, vì vắng mặt bị đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Anh La Văn B khởi kiện xin ly hôn với chị Lù Thị T đảm bảo điều kiện theo quy định của pháp luật, anh B và chị T đều có đăng ký hộ khẩu thường trú tại thôn M, xã X, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai. Vì vậy đây là tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai theo quy định tại Điều 28 và Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Anh La Văn B và chị Lù Thị T có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, vì vậy đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình không hợp, vợ chồng bất đồng quan điểm trong làm ăn kinh tế xuất phát từ đó vợ chồng xẩy ra xô xát cãi nhau; mâu thuẫn của vợ chồng anh chị đã được hai bên gia đình tham gia khuyên bảo nhưng vợ chồng tôi không khắc phục được. Do mâu thuẫn trầm trọng nên vợ chồng tôi đã sống ly thân từ tháng 8 năm 2018 đến nay không quan tâm đến nhau.

Tại phiên toà hôm nay anh Lù Văn B giữ nguyên yêu cầu xin được ly hôn với chị La Thị T.

Đối với chị La thị T vắng mặt tại phiên tòa, trong quá trình giải quyết vụ án, thì chị T không nhất trí ly hôn với anh B, vì tình cảm vợ chồng vẫn còn.

Trong quá trình giải quyết vụ án anh B cung cấp chứng cứ là đơn xác nhận mâu thuẫn được chính quyền địa phương xác nhận. Vì vậy xét yêu cầu xin ly hôn của anh B là có căn cứ, phù hợp với quy định tại Khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Anh Lù Văn B và chị La Thị T có ba con chung là cháu Lù Thị Tr, sinh ngày 01/5/1997, cháu Lù Thị C, sinh ngày 01/9/1999 và cháu Lù Chí Tg, sinh ngày 15/01/2011, hiện nay các cháu khỏe mạnh phát triển bình thường, cháu Tr và cháu C đã trưởng thành và có gia đình riêng, còn cháu Tg đang ở cùng anh B.

Tại phiên tòa hôm nay anh B giữ nguyên yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Lù Chí Tg, anh không yêu cầu chị T cấp dưỡng tiền nuôi con chung, anh B chứng minh hiện nay anh làm tự do thu nhập bình quân khoảng 7.000.000đồng/tháng, được chính quyền địa phương xác nhận.

Đối với chị La Thị T vắng mặt tại phiên tòa, trong quá trình giải quyết vụ án thì chị không nhất trí ly hôn, vì vậy chị không đề nghị Tòa án giải quyết việc nuôi dưỡng chăm sóc con chung. Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã ghi ý kiến của người chưa thành niên đối với cháu Lù Chí Tg thì nguyện vọng của cháu Tg được ở với anh B. Vì vậy xét yêu cầu xin được trực tiếp nuôi con của anh B xin được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Tg là có căn cứ, phù hợp với nguyện vọng của cháu Tg, nên HĐXX cần chấp nhận giao cháu Tg cho anh B trực tiếp nuôi dưỡng, anh B không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con nên HĐXX không xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản chung: Anh B và chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết, vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Về công nợ chung: Anh B và chị T xác nhận vợ chồng không vay nợ ai và cũng không cho ai vay nợ gì, khi ly hôn anh, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết, vì vậy Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điểm b Khoản 2 Điều 227; Khoản 3 Điều 228; Khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng Dân sự; Khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

1. Xử cho anh Lù Văn B ly hôn với chị La Thị T.

2. Về con chung: Xử giao cháu Lù Chí Tg, sinh ngày 15/01/2011, cho anh Lù Văn B trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu trưởng thành đủ 18 tuổi; chị La Thị T không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Sau khi ly hôn, chị La Thị T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Anh Lù Văn B phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai số 0002863 ngày 03/3/2022 của C cục thi hành án dân sự huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai; Anh B đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt nguyên đơn, vắng mặt bị đơn. Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

11
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 31/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:31/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bảo Thắng - Lào Cai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về