Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 31/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÙ GIA MẬP, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 31/2022/HNGĐ-ST NGÀY 20/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 20 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 92/2022/TLST-HNGĐ ngày 23 tháng 6 năm 2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 67/2022/QĐXXST - HNGĐ ngày 22 tháng 8 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 38/QĐST-HNGĐ ngày 08 tháng 9 năm 2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị O, sinh năm 1991 “có mặt” Địa chỉ: Thôn 5, xã Đ, huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước.

Bị đơn: Ông Nguyễn Thành T, sinh năm 1980 “vắng mặt” Địa chỉ: Thôn 5, xã Đ, huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn bà Nguyễn Thị O trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông Nguyễn Thành T kết hôn năm 2011, đăng ký kết hôn tại UBND xã Đ, huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước ngày 20/6/2011.

Trong quá trình chung sống với ông T thì thời gian đầu vợ chồng bà sống hạnh phúc sau đó phát sinh mâu thuẫn do tính tình không hợp và khác biệt về quan điểm sống, từ tháng 5 năm 2022 đến nay vợ chồng bà sống ly thân.

Nay bà xác định tình cảm vợ chồng không còn, đời sống chung không thể kéo dài. Đề nghị Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Nguyễn Thành T.

Về con chung và cấp dưỡng nuôi con chung: Bà và ông T có hai người con chung là Nguyễn Thị Quỳnh N, sinh ngày 19/6/2011 và Nguyễn Thành Bách K, sinh ngày 18/3/2019. Khi ly hôn bà yêu cầu được nuôi cả hai người con chung cho đến khi các con trưởng thành đủ 18 tuổi. Không yêu cầu ông T phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn ông Nguyễn Thành T trình bày: Ông T thừa nhận thống nhất về quan hệ hôn nhân, mâu thuẫn vợ chồng, con chung tài sản chung là đúng. Nng ông T không đồng ý ly hôn; trường hợp bà O cương quyết ly hôn thì ông T đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật.

Về con chung nếu bà O cương quyết ly hôn thì ông đề nghị được nuôi 02 người con chung là Nguyễn Thị Quỳnh N, sinh ngày 19/6/2011 và Nguyễn Thành Bách K, sinh ngày 18/3/2019 cho đến khi các con trưởng thành đủ 18 tuổi.

Ngoài ra ông T không còn yêu cầu nào khác.

Ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát: Từ khi thụ lý vụ án đến khi xét xử sơ thẩm, Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử, nguyên đơn, bị đơn đều thực hiện đúng, đầy đủ quy định Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Về hướng giải quyết vụ án: Nguyên đơn, bị đơn tự nguyện sống chung với nhau có đăng ký kết hôn theo đúng quy định của pháp luật, sau đó phát sinh mâu thuẫn và hiện đã sống ly thân. Nay, nguyên đơn có nguyện vọng được ly hôn và yêu cầu được nuôi con chung. Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời trình bày của đương sự tại phiên tòa, cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà O, giải quyết cho bà O được ly hôn với ông T; do cháu Nguyễn Thị Quỳnh N có nguyện vọng được sống với mẹ và Nguyễn Thành Bách K còn nhỏ dưới 36 tháng tuổi nên giao các cháu N và K cho bà O trực tiếp nuôi dưỡng; về cấp dưỡng nuôi con, về tài sản và nợ chung đương sự không yêu cầu, nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền và thủ tục tố tụng:

Bà Nguyễn Thị O khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với bị đơn ông Nguyễn Thành T có hộ khẩu thường trú và hiện đang cư trú tại thôn 5, xã Đ, huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước. Tòa án nhân dân huyện Bù Gia Mập xác định quan hệ pháp luật của vụ án là “Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn”. Căn cứ vào các Điều 28; 35; 39 của Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 51; 53 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước.

Tại phiên tòa hôm nay bị đơn ông Nguyễn Thành T vắng mặt không có lý do. Xét thấy bị đơn ông T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa lần thứ 2, Nng vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án vẫn tiến hành giải quyết vụ án theo thủ tục chung.

[2] Về nội dung vụ án:

Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa bà O và ông T được hình thành trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước ngày 20/6/2011 đúng theo quy định pháp luật, là quan hệ hôn nhân hợp pháp.

Xét yêu cầu ly hôn của bà Nguyễn Thị O, Hội đồng xét xử thấy: Bà O trình bày trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn, thường xuyên cãi nhau và từ tháng 5 năm 2022 đến nay bà và ông T sống ly thân. Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành xác minh tại chính quyền địa phương nơi ông T bà O cư trú được biết vợ chồng ông T bà O có cãi nhau và hiện đã sống ly thân. Từ những căn cứ trên cho thấy hôn nhân giữa ông T, bà O đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Căn cứ vào các Điều 51, 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn của nguyên đơn bà Nguyễn Thị O.

Về con chung: Bà và ông T có hai người con là Nguyễn Thị Quỳnh N, sinh ngày 19/6/2011 và Nguyễn Thành Bách K, sinh ngày 18/3/2019; khi ly hôn bà O yêu cầu được nuôi con cả hai người con cho đến khi các con trưởng thành đủ 18 tuổi. Trong quá trình giải quyết vụ án ông T cũng yêu cầu được nuôi con. Tuy nhiên, ngày 11/7/2022 Tòa án đã tiến hành lấy lời khai của cháu Nguyễn Thị Quỳnh N thì nguyện vọng của cháu là được sống với mẹ, còn cháu Nguyễn Thành Bách K thì chưa đủ 36 tháng. Xét thấy nhằm bảo đảm quyền lợi, cũng N sự ổn định của con chưa thành niên và nguyện vọng của các cháu. Do đó, cần giao hai con chung là Nguyễn Thị Quỳnh N và Nguyễn Thành Bách K cho bà O trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Việc cấp dưỡng nuôi con bà O không yêu cầu nên không xem xét.

Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên không xem xét.

[3] Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Gia Mập tại phiên tòa là có căn cứ, được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về án phí sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị O phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 51, Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 227, 266, 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ Ban Thường Vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị O.

Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị O được ly hôn ông Nguyễn Thành T.

Về việc nuôi con chung: Giao cho bà Nguyễn Thị O trực tiếp nuôi các con chung tên Nguyễn Thị Quỳnh N, sinh ngày 19/6/2011 và Nguyễn Thành Bách K, sinh ngày 18/3/2019 cho đến khi các con trưởng thành đủ 18 tuổi.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Cha, mẹ trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con thực hiện các nghĩa vụ theo quy định tại Điều 82 của luật này; yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình tôn trọng quyền được nuôi con của mình. Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

2. Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị O phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số 0006243 ngày 21 tháng 6 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước.

3. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 31/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:31/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bù Gia Mập - Bình Phước
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về