TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HẢI AN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 29/2021/HNGĐ-ST NGÀY 06/08/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN
Ngày 06 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hải An, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 57/2021/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 6 năm 2021 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 33/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 13 tháng 7 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 19/2021/QĐST-HNGĐ ngày 29 tháng 7 năm 2021 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Đỗ Thị L; cư trú tại: Số 54 C, tổ dân phố số 4, phường T, quận H, thành phố Hải Phòng. Có mặt.
- Bị đơn: Anh Phạm Hoàng H, cư trú tại: Số 54 C, tổ dân phố số 4, phường T, quận H, thành phố Hải Phòng (bị Tòa án tuyên bố là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi theo Quyết định sơ thẩm giải quyết việc dân sự số 03/2021/QĐDS-ST ngày 06 tháng 5 năm 2021 của Tòa án nhân dân quận Hải An, thành phố Hải Phòng). Vắng mặt.
Người đại diện hợp pháp của bị đơn: Bà Ngô Thị Ngọc C; cư trú tại: Số 54 C, tổ dân phố số 4, phường T, quận H, thành phố Hải Phòng; là người đại diện theo pháp luật của bị đơn (người giám hộ của anh Phạm Hoàng H theo chỉ định của Tòa án). Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 09 tháng 6 năm 2021 và trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn là chị Đỗ Thị L trình bày:
Chị và anh Phạm Hoàng H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký tại Ủy ban nhân dân phường C, quận N (nay là phường C, quận H), thành phố Hải Phòng vào ngày 26 tháng 12 năm 2001. Sau khi kết hôn, thời gian đầu vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc; sau đó phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh H bị bệnh tâm thần phân liệt, nhiều lần có hành vi bạo lực gia đình, đánh đập chị và các con. Hiện tại anh H đang điều trị ngoại trú theo phác đồ của Bệnh viện Tâm thần Hải Phòng. Tại Quyết định sơ thẩm giải quyết việc dân sự số 03/2021/QĐDS- ST ngày 06 tháng 5 năm 2021 của Tòa án nhân dân quận Hải An, thành phố Hải Phòng đã tuyên bố anh Phạm Hoàng H là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. Nay để bảo vệ bản thân và các con, cũng như nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, gia đình không có khả năng đoàn tụ, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Phạm Hoàng H.
Chị và anh Phạm Hoàng H có hai con chung là Phạm Minh H, sinh ngày 06 tháng 10 năm 2002 và Phạm Bạch D, sinh ngày 31 tháng 01 năm 2006. Đối với con chung Phạm Minh H hiện đã thành niên và có khả năng lao động nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết. Chị đề nghị Tòa án giao con chung Phạm Bạch D cho chị trực tiếp nuôi dưỡng. Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết việc cấp dưỡng nuôi con.
Giữa chị và anh Phạm Hoàng H không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại Biên bản lấy lời khai ngày 21 tháng 6 năm 2021 , người đại diện hợp pháp của anh Phạm Hoàng H là bà Ngô Thị Ngọc C trình bày:
Bà là mẹ đẻ đồng thời là người giám hộ của anh Phạm Hoàng H. Anh Phạm Hoàng H và chị Đỗ Thị L kết hôn cách đây khoảng 20 năm. Sau khi kết hôn, anh chị chung sống cùng gia đình bà tại C, H, Hải Phòng. Quá trình chung sống, giữa anh H và chị L cũng xảy ra một vài mâu thuẫn, xô xát nhỏ nhưng không có việc đánh đập; cách đây khoảng vài năm anh chị đã sống ly thân. Nay chị L có đơn xin ly hôn, vì đây là việc riêng nên để chị L tự quyết định. Giữa anh H và chị L có hai con chung là Phạm Minh H và Phạm Bạch D. Cháu H hiện đã trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Cháu D hiện đang sống cùng gia đình bà, nếu chị L muốn nuôi con thì đề nghị nói rõ với gia đình, nếu hợp lý bà sẽ để chị L tự quyết định. Giữa anh Phạm Hoàng H và chị Đỗ Thị L không có tài sản gì chung.
Tại Đơn trình bày nguyện vọng đề ngày 21 tháng 6 năm 2021 , con chung chưa thành niên trên 07 tuổi của chị Đỗ Thị L và anh Phạm Hoàng H là cháu Phạm Bạch D trình bày:
Nếu bố mẹ ly hôn thì nguyện vọng của cháu là muốn sống cùng với mẹ vì mẹ có thể chăm sóc cho cháu được tốt hơn.
Theo Biên bản xác minh ngày 24 tháng 6 năm 2021 tại Tổ dân phố nơi chị Đỗ Thị L và anh Phạm Hoàng H cư trú:
Chị Đỗ Thị L và anh Phạm Hoàng H kết hôn cách đây khoảng 20 năm. Quá trình chung sống nhìn chung anh chị có nhiều mâ u thuẫn do sức khỏe của anh H không ổn định, thường xuyên chửi bới, đánh đập chị L. Vì mâu thuẫn trầm trọng nên khoảng 03 năm nay, anh H và chị L đã sống ly thân, không còn quan tâm đến nhau. Nay chị L có đơn xin ly hôn, vì đây là việc riêng nên để anh chị tự quyết định.
Ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa:
Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm nghị án. Nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn và người đại diện hợp pháp của bị đơn chưa thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ của người tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật .
Về quan hệ hôn nhân: Chị Đỗ Thị L và anh Phạm Hoàng H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký tại Ủy ban nhân dân phường C, quận N (nay là phường C, quận H), thành phố Hải Phòng là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống, do anh H bị bệnh tâm thần phân liệt nên giữa anh H và chị L thường xảy ra mâu thuẫn, xô xát, cuộc sống chung không hạnh phúc, hiện vợ chồng đã sống ly thân, không còn quan tâm đến nhau, thể hiện hôn nhân lâm đã vào tình trạng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đỗ Thị L, xử cho chị Đỗ Thị L được ly hôn với anh Phạm Hoàng H.
Về con chung: Giao con chung Phạm Bạch D, sinh ngày 31 tháng 01 năm 2006 cho chị Đỗ Thị L trực tiếp nuôi dưỡng. Đối với con chung Phạm Minh H, sinh ngày 06 tháng 10 năm 2002 hiện đã thành niên và có khả năng lao động nên đề nghị Hội đồng xét xử không xét.
Về cấp dưỡng nuôi con và tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên đề nghị Hội đồng xét xử không xét.
Về án phí: Chị Đỗ Thị L phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tố tụng: Đây là vụ án dân sự về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tại thời điểm khởi kiện, bị đơn là anh Phạm Hoàng H đang cư trú tại số 54 C, tổ dân phố số 4, phường T, quận H, thành phố Hải Phòng. Vì vậy, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Hải An theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Tại phiên tòa, bị đơn là anh Phạm Hoàng H và người đại diện theo pháp luật của anh Phạm Hoàng H (người giám hộ theo chỉ định của Tòa án) là bà Ngô Thị Ngọc C đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Vì vậy, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt những người trên theo quy định tại khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Đỗ Thị L và anh Phạm Hoàng H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký tại Ủy ban nhân dân phường C, quận N (nay là phường C, quận H), thành phố Hải Phòng vào ngày 26 tháng 12 năm 2001 là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, do anh H bị bệnh tâm thần phân liệt, không kiểm soát được hành vi mỗi khi phát bệnh nên giữa vợ chồng thường xảy ra mâu thuẫn, xô xát. Tại Quyết định sơ thẩm giải quyết việc dân sự số 03/2021/QĐDS- ST ngày 06 tháng 5 năm 2021 của Tòa án nhân dân quận Hải An, thành phố Hải Phòng đã tuyên bố anh Phạm Hoàng H là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. Xét, chị Đỗ Thị L và anh Phạm Hoàng H hiện đã sống ly thân, không còn quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẻ các công việc trong gia đình, vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ của vợ, chồng quy định tại khoản 1 Điều 19 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, yêu cầu của chị Đỗ Thị L xin được ly hôn với anh Phạm Hoàng H là có căn cứ, phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 nên được chấp nhận.
[4] Về con chung: Chị Đỗ Thị L và anh Phạm Hoàng H có hai con chung là Phạm Minh H, sinh ngày 06 tháng 10 năm 2002 và Phạm Bạch D, sinh ngày 31 tháng 01 năm 2006. Đối với con chung Phạm Minh H hiện đã thành niên và có khả năng lao động nên Hội đồng xét xử không xét. Đối với con chung Phạm Bạch D, là con gái, đang trong độ tuổi trưởng thành, cần sự quan tâm, chăm sóc, dạy dỗ của mẹ; chị L hiện là lao động tự do với thu nhập khoảng 8.000.000 đồng/tháng, có đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con, cháu D cũng có nguyện vọng được sống cùng mẹ; trong khi đó, anh H đã bị Tòa án tuyên bố là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi , bản thân cũng phải có người giám hộ theo chỉ định của Tòa án. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị Đỗ Thị L về việc giao con chung Phạm Bạch D cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng nuôi con, các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xét. Các đương sự có quyền khởi kiện bằng vụ án khác theo quy định của pháp luật.
[5] Về tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xét. Các đương sự có quyền khởi kiện bằng vụ án khác theo quy định của pháp luật.
[6] Về án phí: Chị Đỗ Thị L phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các điều 28, 35, 39, 147, 227, 228, 233, 235 và 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Các điều 19, 56, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Tuyên xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Đỗ Thị L ly hôn anh Phạm Hoàng H.
2. Về con chung:
2.1. Đối với con chung Phạm Minh H, sinh ngày 06 tháng 10 năm 2002 hiện đã thành niên và có khả năng lao động nên không xét.
2.2. Giao con chung Phạm Bạch D, sinh ngày 31 tháng 01 năm 2006 cho chị Đỗ Thị L trực tiếp nuôi dưỡng đến khi con thành niên (đủ 18 tuổi) hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
2.3. Về cấp dưỡng nuôi con: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xét. Các đương sự có quyền khởi kiện bằng vụ án khác theo quy định của pháp luật.
3. Về tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xét. Các đương sự có quyền khởi kiện bằng vụ án khác theo quy định của pháp luật.
4. Về án phí: Chị Đỗ Thị L phải nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm. Chị Đỗ Thị L đã nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) - tiền tạm ứng án phí theo biên lai số 0018125 ngày 17 tháng 6 năm 2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Hải An, thành phố Hải Phòng. Chị Đỗ Thị L đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo:
Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bị đơn, người đại diện hợp pháp của bị đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 29/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 29/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Hải An - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 06/08/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về