Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 28/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẢO YÊN - TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 28/2022/HNGĐ-ST NGÀY 28/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 28/9/2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 87/2022/TLST-HNGĐ ngày 23/6/2022 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 21/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 26/8/2022 và Quyết định hoãn phiên toà số 22/2022/QĐST-HNGĐ ngày 12/9/2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Cổ Thị H, sinh năm 1995 Địa chỉ: Bản N, xã N, huyện B, tỉnh Lào Cai Có mặt.

Bị đơn: Anh Lý Văn M, sinh năm: 1993 Địa chỉ: Bản N, xã N, huyện B, tỉnh Lào Cai Vắng mặt lần thứ hai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện nộp ngày 23/6/2022, bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Cổ Thị H trình bày:

Chị và anh Lý Văn M kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 19/11/2014 tại Uỷ ban nhân dân xã N, huyện B, tỉnh Lào Cai. Sau khi kết hôn vợ chồng chị sống cùng bố mẹ đẻ chị tại bản N, xã N, cuộc sống hạnh phúc được một thời gian ngắn thì có mâu thuẫn xảy ra. Nguyên nhân là do vợ chồng không hợp nhau, bất đồng quan điểm hay cãi vã đánh chửi nhau, ngoài ra anh M còn nghi ngờ ghen tuông chị có người khác, từ đầu năm 2022 anh chị đã sống ly thân không ai quan tâm tới nhau. Nay chị H không còn tình cảm gì với anh M, chị đề nghị Toà án giải quyết cho chị ly hôn với anh M.

Về con chung, anh chị có một con chung là cháu Lý Thanh M sinh ngày 28/8/2015. Chị đề nghị Toà án giải quyết cho chị trực tiếp nuôi cháu và không yêu cầu anh M phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Ngoài ra hiện nay anh chị không có tài sản chung và công nợ chung.

Đối với bị đơn anh Lý Văn M, Toà án đã xác minh tại địa phương hiện anh M vắng mặt tại địa phương không rõ thời điểm trở về. Toà án đã niêm yết thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng nhưng anh M không có văn bản trả lời và không có mặt tại Toà án.

Về việc cung cấp tài liệu, chứng cứ, nguyên đơn đã cung cấp đầy đủ các tài liệu chứng cứ theo yêu cầu của Toà án, bị đơn không cung cấp tài liệu chứng cứ gì. Toà án đã lấy lời khai bà Hoàng Thị H là mẹ đẻ chị H, bà H cho biết chị H, anh M sống cùng bà và thường xuyên xảy ra cãi chửi nhau. Ngày 29/8/2022 Toà án đã hỏi ý kiến của cháu Lý Thanh M và cháu có nguyện vọng muốn ở với mẹ. Toà án đã thông báo hoà giải nhưng do bị đơn vắng mặt nên không tiến hành hoà giải được.

Tại phiên toà hôm nay nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Yên phát biểu quan điểm: Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa Thẩm phán, Thư ký Tòa án, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật, bị đơn không chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ. Về quan điểm giải quyết vụ án, đề nghị áp dụng: Điều 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; Điều 147, 228 Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, xử cho chị Cổ Thị H ly hôn anh Lý Văn M. Về con chung, xử giao cháu Lý Thanh M cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, anh M không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Về án phí, chị H phải chịu cả tiền án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về áp dụng pháp luật tố tụng: Chị Cổ Thị H có đơn yêu cầu giải quyết vụ án “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” với anh Lý Văn M. Căn cứ vào Điều 28, 35, 39 Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai. Anh M vắng mặt tại phiên toà lần thứ hai không có lý do nên Toà án xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì chị H và anh M có đăng ký kết hôn ngày 19/11/2014 tại UBND xã N, huyện B, tỉnh Lào Cai, hôn nhân của anh chị là hợp pháp. Quá trình chung sống với nhau anh chị có mâu thuẫn xảy ra do không hợp tính nhau, bất đồng quan điểm, thường xuyên cãi vã đánh chửi nhau, từ đầu năm 2022 đến nay anh chị đã ly thân không ai quan tâm tới nhau. Chị H đã cung cấp xác nhận của chính quyền địa phương về việc mâu thuẫn của anh chị là đúng sự thật, ngoài ra theo lời khai của mẹ đẻ chị H thì cuộc sống chung của anh chị thường xuyên cãi chửi nhau là đúng. Xét thấy đời sống hôn nhân của anh chị lâm vào tình trạng trầm trọng, anh chị đã không còn thương yêu, tôn trọng nhau nên mục đích của hôn nhân không đạt được. Căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị Hiền xử cho chị H ly hôn anh M.

[3]. Về con chung: Chị H và anh M có một con chung là cháu Lý Thanh M sinh ngày 28/8/2015, hiện nay cháu phát triển bình thường và có nguyện vọng muốn ở với mẹ. Theo xác nhận của địa phương thì hiện nay chị H anh M đều là lao động tự do với mức thu nhập bình quân mỗi người từ 03 đến 04 triệu đồng/tháng nên anh chị đều có đủ khả năng điều kiện để trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Quá trình giải quyết vụ án chị H đề nghị Toà án giải quyết cho chị được trực tiếp nuôi con chung, anh M không có văn bản trả lời. Vì vậy để đảm bảo cho cháu được nuôi dưỡng tốt nhất, căn cứ các Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị H. Về nghĩa vụ cấp dưỡng, chị H không có đề nghị gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4]. Về tài sản chung và công nợ chung: chị H trình bày không có tài sản chung và công nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5]. Về án phí: Chị Hiền phải chịu án phí dân sự sơ thâm theo quy đinh của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình;

Căn cứ khoản 4 Điều 147, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu phí, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1/ Xử cho chị Cổ Thị H ly hôn anh Lý Văn M.

2/ Về con chung, xử giao cháu Lý Thanh M sinh ngày 28/8/2015 cho chị Cổ Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu trưởng thành đủ 18 tuổi. Anh Lý Văn M không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Sau khi ly hôn, anh M có quyền, nghĩa vụ thăm nom chăm sóc con chung mà không ai được cản trở.

3/ Về án phí: Chị Cổ Thị H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai theo biên lai số 0003532 ngày 23/6/2022, chị đã nộp đủ án phí.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày niêm yết bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, 7a và Điều 9 Luật thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

45
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 28/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:28/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bảo Yên - Lào Cai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về