Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 24/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUẦN G, TỈNH ĐIỆN B

BẢN ÁN 24/2022/HNGĐ-ST NGÀY 14/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 14/9/2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuần G, tỉnh Điện B xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 77/2022/TLST - HNGĐ ngày 16/6/2021 về: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 30/2022/QĐXXST - HNGĐ ngày 12/8/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 15/2022/QĐST-HNGĐ ngày 29/8/2022 của Tòa án nhân dân huyện Tuần G giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lò Thị S, sinh năm 1991.

Địa chỉ thường trú: Bản Thín , xã Mường Th, huyện Tuần G, tỉnh Điện B.

Địa chỉ hiện nay: Bản Co Đ, xã Mường Kh, huyện Tuần G, tỉnh Điện B, có mặt. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho chị Lò Thị S: Bà Lường Thị Th- Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Điện Biên, có mặt.

2. Bị đơn: Anh Lò Văn X, sinh năm 1993 Địa chỉ: Bản Th , xã Mường Th, huyện Tuần G, tỉnh Điện B. Anh X vắng mặt lần 2 không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 15/6/2022, tại phiên tòa sơ thẩm, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn bà Lường Thị Th trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Lò Văn X chung sống với nhau từ năm 2010 nhưng đến ngày 04/01/2018 mới tiến hành đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Mường Th, huyện Tuần G, tỉnh Điện B. Hôn nhân là tự nguyện không ai bị lừa dối, ép buộc. Quá trình chung sống hạnh phúc đến năm 2021 thì phát sinh mẫu thuẫn do anh X không chăm lo hạnh phúc gia đình, ăn chơi dẫn đến nghiện ma túy, gia đình đã khuyên bảo nhiều lần song anh X không bỏ được ma túy khiến vợ chồng thường xuyên cãi nhau, anh X đập phá nhà cửa. Chị S đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ tại bản Co Đ, xã Mường Kh, huyện Tuần G, tỉnh Điện B. Từ đó đến nay anh, chị không có quan hệ sinh lý, tình cảm gì nữa. Xét thấy tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, chị yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với anh Lò Văn X.

Về quan hệ con chung: Chị S, anh X có 02 con chung: Cháu thứ nhất Lò Quân T, sinh ngày 19/10/2012, cháu thứ 2 Lò Duy Th, sinh ngày 14/12/2017. Khi ly hôn chị S có nguyện vọng được trực tiếp nuôi cháu T và giao cháu Th cho anh X nuôi dưỡng đến tuổi thành niên. Không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung. Tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ chị S thay đổi yêu cầu khởi kiện về con chung, chị xin nuôi cả hai con chung và không yêu cầu anh X cấp dưỡng

Về quan hệ tài sản: Tài sản riêng, tài sản chung, nợ phải trả, trả nợ lấy về:

chị S khai không có.

Sau khi thụ lý vụ án ngày 16/6/2022, Sau khi Tòa án đã tiến hành xác minh nơi cư trú của anh X, mặc dù có đăng ký thường trú tại địa phương song anh X đã đi làm thuê tại Hà N, thỉnh thoảng mới về, không báo với địa phương nên địa phương không nắm rõ anh X làm gì và cụ thể ở đâu nên không thể tống đạt trực tiếp các văn bản tố tụng cho anh X. Tòa án đã tiến hành niêm yết công khai các văn bản tố tụng như Thông báo thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải theo quy định của pháp luật.

Hết thời hạn 15 ngày, kể từ ngày niêm yết các văn bản tố tụng anh X vẫn không có mặt nộp văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của người khởi kiện. Ngày 25/7/2022, Tòa án đã mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải giữa các đương sự song anh Xắp vắng mặt không có lý do, Tòa án đã lập biên bản về sự vắng mặt không có lý do của anh X và tiến hành niêm yết thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ theo quy định của pháp luật. Ngày 25/7/2022, chị Lò Thị S đã có đơn đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải nữa đề nghị Tòa án xét xử vụ án theo đúng quy định của pháp luật.

Ngày 29/8/2022, Tòa án nhân dân huyện Tuần G mở phiên tòa xét xử theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 30/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 12/8/2022 và đã niêm yết theo quy định của pháp luật, anh X vắng mặt lần thứ nhất không có lý do, Tòa án đã hoãn phiên tòa theo luật định.

Tại phiên tòa ngày 14/9/2022, chị S vẫn giữ nguyên quan điểm như trong đơn khởi kiện, bản tự khai, về phần con chung, chị thay đổi yêu cầu khởi kiện, chị xin nuôi cả hai con chung và không yêu cầu anh X cấp dưỡng. Anh Lò Văn X vắng mặt lần 2 không có lý do.

Tại bản Luận cứ bảo vệ cho nguyên đơn bà Lường Thị Th đề nghị HĐXX: Về quan hệ hôn nhân chấp nhận cho nguyên đơn chị Lò Thị S được ly hôn với anh Lò Văn X theo khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình. Về con chung: Giao hai cháu Lò Quân T, sinh ngày 19/10/2012 và cháu Lò Duy Th, sinh ngày 14/12/2017 cho chị S chăm sóc nuôi dưỡng đến khi thành niên. Anh X không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về quan hệ tài sản: Không có Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVHQ 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Chị Lò Thị S là người dân tộc thiểu số sinh sống tại địa bàn kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, thuộc diện được miễn án phí, đề nghị HĐXX miễn án phí DSST cho chị Lò Thị S .

Ý kiến của Kiểm sát viên về việc tuân theo pháp luật: Về thẩm quyền và trình tự thủ tục Thẩm phán, thư ký Tòa án và Hội đồng xét xét xử đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật Tố tụng Dân sự. Về quan điểm giải quyết vụ án: Về quan hệ hôn nhân chấp nhận cho chị Lò Thị S được ly hôn với anh Lò Văn X theo Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình. Về con chung: Giao hai cháu Lò Quân T, sinh ngày 19/10/2012 và cháu Lò Duy Th, sinh ngày 14/12/2017 cho chị S chăm sóc nuôi dưỡng đến khi thành niên. Anh X không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về quan hệ tài sản: Không có Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVHQ 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Chị Lò Thị S là người dân tộc thiểu số sinh sống tại địa bàn kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, thuộc diện được miễn án phí, đề nghị HĐXX miễn án phí DSST cho chị Lò Thị S.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Căn cứ nội dung đơn khởi kiện, các tài liệu chứng cứ kèm theo và địa chỉ của các đương sự, Tòa án xác định đây là vụ án: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo theo khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố Tụng dân sự.

[2]. Về pháp luật áp dụng để giải quyết vụ án: Chị Lò Thị S và anh Lò Văn X kết hôn ngày 04/01/2018 đến thời điểm giải quyết, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đang có hiệu lực, do vậy Tòa án sẽ áp dụng các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 để giải quyết.

[3] Về việc hoãn phiên tòa: Ngày 29/8/2022, Tòa án nhân dân huyện Tuần G đã tiến hành mở phiên tòa xét xử vụ án song nguyên đơn và bị đơn vắng mặt không có lý do. Căn cứ Khoản 1 Điều 227, Điều 233, Điều 235 của Bộ luật tố tụng dân sự, HĐXX quyết định hoãn phiên tòa.

[4] Việc thay đổi, bổ sung một phần yêu cầu khởi kiện: Tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và tại phiên tòa chị xin thay đổi yêu cầu khởi kiện về con chung. HĐXX căn cứ Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự: Xét thấy yêu cầu của chị S không vượt quá yêu cầu khởi kiện ban đầu nên chấp nhận.

[5] Về quan hệ hôn nhân: Chị S và anh S lấy nhau có đăng ký kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình nên quan hệ hôn nhân của anh chị là hợp pháp. Quá trình chung sống hạnh phúc đến năm 2021 qua lời trình bày của chị S do anh X nghiện ma túy không bỏ được nên đã sinh ra nhiều mâu thuẫn đến tình cảm anh chị không còn nữa, chị đã về nhà bố mẹ đẻ từ tháng 5 năm 2021 cho đến nay không có quan hệ sinh lý và tình cảm gì với anh X Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành các biện pháp xác minh tình trạng hôn nhân, tống đạt đầy đủ các văn bản tố tụng: Thông báo thụ lý vụ án, thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa cho anh X song anh X vẫn không có mặt tại Tòa án để thực hiện các quyền và nghĩa vụ của đương sự theo Điều 70, Điều 72 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Anh X đã không có ý kiến gì đối với yêu cầu của chị S, vắng mặt tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, vắng mặt tại phiên tòa không có lý do, đã thể hiện ý thức không chấp hành pháp luật, vi phạm các quyền và nghĩa vụ của đương sự theo điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Anh X đã tự từ bỏ các các quyền và không thực hiện nghĩa vụ của mình. Ngày 25/7/2022, Chị S có đơn đề nghị không tiến hành hòa giải lần 2. Vụ án thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được theo Điều 207 Bộ Luật Tố tụng dân sự. Theo hai biên bản xác minh tình trạng hôn nhân cùng ngày 20/6/2022 tại bản Th, xã Mường Th, huyện Tuần G và ngày 20/6/2022 tại Bản Co Đ, xã Mường Kh, huyện Tuần G, tỉnh Điện B (BL 39, 41) thể hiện về nguyên nhân mâu thuẫn do anh X nghiện ma túy, có trong danh sách cai nghiện ma túy của xã Mường Th, chị S đã sống ly thân với anh X từ tháng 5 năm 2021 cho đến nay.

HĐXX xét thấy: Mặc dù anh X không có mặt tại Tòa án để thể hiện ý kiến quan điểm của mình về quan hệ hôn nhân, song qua các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, qua quá trình Tòa án thu thập chứng cứ xác minh tình trạng hôn nhân, đủ cơ sở khẳng định nguyên nhân mâu thuẫn do anh X nghiện ma túy khiến hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng là có thật và đúng như lời khai của chị S. Mục đích hôn nhân là vợ chồng gần gũi, thương yêu chăm sóc, quý trọng giúp đỡ lẫn nhau không có, quan hệ hôn nhân đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, việc chị S xin ly hôn với anh X cần được chấp nhận theo khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[6] Xét nguyện vọng về con chung: Anh chị có 02 con chung: Cháu Lò Quân T, sinh ngày 19/10/2012 và cháu Lò Duy Th, sinh ngày 14/12/2017. Chị S có nguyện vọng được trực tiếp nuôi cả hai cháu đến tuổi thành niên, chị S không yêu cầu anh X cấp dưỡng nuôi con chung, hiện cả hai cháu đang ở với chị. Theo lời khai của chị Svà theo biên bản xác minh tình trạng hôn nhân thì chị S hiện ở cùng bố mẹ đẻ, thu nhập vừa làm ruộng vừa làm thuê có đủ khả năng nuôi dưỡng con chung, anh X là đối tượng nghiện cũng đi làm thuê song thu nhập địa phương không nắm rõ. Tại tờ khai nguyện vọng cháu Lò Quân T có nguyện vọng được ở với chị S. Do anh X không có mặt tại Tòa án để thể hiện quan điểm, nguyện vọng về phần nuôi con chung, anh X đã tự từ bỏ các quyền của mình. HĐXX căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của cháu T, nguyện vọng và khả năng chăm sóc nuôi dưỡng của chị S. Căn cứ Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình quyết định giao hai cháu Lò Quân T, sinh ngày 19/10/2012 và cháu Lò Duy Th, sinh ngày 14/12/2017 cho chị S trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng đến khi thành niên, anh X không phải cấp dưỡng nuôi con.

[7]. Về quan hệ tài sản: Tài sản riêng, tài sản chung, nợ phải trả, trả nợ lấy về: Không có

[8]. Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVHQ 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Chị Lò Thị S thuộc diện được miễn án phí, có đơn xin miễn án phí, HĐXX miễn án phí dân sự sơ thẩm cho chị Lò Thị S.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 28; Điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39;

khoản 1, khoản 3 Điều 228; Điều 244 và Điều 273 Bộ Luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 51; khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82, 83,84 Luật Hôn nhân gia đình:

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho nguyên đơn chị Lò Thị S được ly hôn với bị đơn anh Lò Văn X.

2. Về con chung: Giao hai cháu Lò Quân T, sinh ngày 19/10/2012 và cháu Lò Duy Th, sinh ngày 14/12/2017 cho chị Lò Thị S trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng đến khi thành niên, anh X không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con không ai được cản trở. Cha mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 5 điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về quan hệ tài sản: Tài sản riêng, tài sản chung, nợ phải trả, nợ lấy về: Không có.

4. Về án phí DSST: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVHQ 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Miễn án phí dân sự sơ thẩm cho chị Lò Thị S

5. Về quyền kháng cáo: Chị Lò Thị S được quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, ngày 14/9/2022; Anh Lò Văn X được quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

105
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 24/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:24/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuần Giáo - Điện Biên
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về