Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 24/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 24/2022/HNGĐ-ST NGÀY 23/02/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 23 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 253/2021/TLST-HNGĐ ngày 04/11/2021 về Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 247/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 28 tháng 12 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 05/2022/QĐST-HNGĐ ngày 13 tháng 01 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Tô Thị O, sinh năm 1994. Địa chỉ: Xã K, huyện K, tỉnh Hải Dương.

2. Bị đơn: Nguyễn Văn T, sinh năm 1988.

Địa chỉ cư trú trước khi xuấy cảnh: xã N, huyện K, tỉnh Hải Dương. Nơi cư trú hiện nay: Hàn Quốc.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan : Bà Dương Thị Đ1, sinh năm 1961, địa chỉ: xã N, huyện K, tỉnh Hải Dương.

Các đương sự đều vắng mặt. (Chị O có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện xin ly hôn và bản tự khai cùng các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, chị Tô Thị O trình bày: Chị và anh Nguyễn Văn T được tự do tìm hiểu và tự nguyện kết hôn vào ngày 25 tháng 10 năm 2013 tại UBND xã N, huyện K, tỉnh Hải Dương. Sau khi chung sống với nhau được một thời gian khoảng 06 năm thì vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng không hòa hợp, bất đồng về quan điểm sống dẫn đến to tiếng, cãi nhau. Sau đó, anh T đi xuất khẩu lao động tại Hàn Quốc từ đầu năm 2019 đến nay. Từ khi đi nước ngoài, vợ chồng không còn liên lạc gì với nhau, anh T không còn quan tâm chăm lo đến gia đình, không ai quan tâm đến cuộc sống riêng của nhau. Đến tháng 06/2021, gia đình anh T đã lén lút đưa con chung của chị O và anh T đi xét nghiệm ADN vì nghi ngờ các cháu không phải là con của anh T, làm chị O bị xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm. Vì vậy, chị O đã đưa cháu Nguyễn Minh Kiên về gia đình ngoại để ở và vợ chồng cũng ly thân từ đó đến này. Chị O xác định mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Nguyễn Văn T.

Về con chung: Trong thời kỳ hôn nhân chị O, anh T có 02 con chung là cháu Nguyễn Minh Đ, sinh ngày 24/12/2014 và cháu Nguyễn Minh Kiên, sinh ngày 23/01/2019. Hiện nay, cháu Nguyễn Minh Đ, sinh ngày 24/12/2014 đang ở cùng ông bà nội tại xã N, huyện K, tỉnh Hải Dương. Còn cháu Nguyễn Minh Kiên đang sống cùng với chị O tại nhà bố mẹ đẻ của chị O ở xã K, huyện K, tỉnh Hải Dương. Chị O có nguyện vọng được nuôi dưỡng cả hai con chung do các cháu vẫn còn nhỏ cần sự quan tâm chăm sóc của mẹ. Bản thân chị O hiện nay cũng có nơi cư trú và việc làm ổn định có đủ khả năng để nuôi dưỡng chăm sóc cháu đầy đủ. Đề nghị Tòa án giao cho chị O nuôi dưỡng cả hai con chung và không yêu cầu anh T cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung, công sức đóng góp với gia đình: Chị O không đề nghị Tòa án giải quyết.

Tòa án đã tiến hành lấy lời khai của bà Dương Thị Đ1 là mẹ đẻ của anh Nguyễn Văn T. Tại các biên bản lấy lời khai ngày 08/11/2021 và 16/12/2021, bà Đ1 trình bày: Anh T và chị O được tự do tìm hiểu và tự nguyện kết hôn vào ngày 25 tháng 10 năm 2013 tại UBND xã N, huyện K, tỉnh Hải Dương. Hiện nay, anh T đang học tập và lao động tại Hàn Quốc. Anh T đã được bà thông báo các nội dung văn bản tố tụng của Tòa án gửi. Sau khi được bà thông báo, anh T thông tin lại và xác định tình cảm vợ chồng không còn nên anh T nhất trí đồng ý ly hôn chị O. Do anh T không cung cấp địa chỉ cụ thể ở Hàn Quốc và bản thân bà cũng không nắm được nên bà không thể cung cấp cho Tòa án. Về con chung, chị O, anh T có 02 con chung là cháu Nguyễn Minh Đ, sinh ngày 24/12/2014 và cháu Nguyễn Minh Kiên, sinh ngày 23/01/2019. Khi ly hôn, anh T có nguyện vọng được nuôi dưỡng cháu Nguyễn Minh Đ, còn chị O trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Minh Kiên và không ai phải cấp dưỡng tiền nuôi con cho ai.

Theo thông tin do Cục Quản lý xuất nhập cảnh cung cấp tại Công văn số 30189/QLXNC-P5 ngày 07/12/2021 thể hiện: Anh Nguyễn Văn T, sinh ngày 10/07/1988 tại Hải Dương, có thông tin xuất, nhập cảnh nhiều lần (11 lần); lần cuối xuất cảnh ngày 02/02/2020 bằng hộ chiếu số C5529301 qua cửa khẩu Nội Bài, hiện chưa có thông tin nhập cảnh.

Tại phiên tòa, chị O, anh T, bà Đ1 đều vắng mặt (Chị O có đơn xin xét xử vắng mặt).

Quan điểm của đại diện VKSND tỉnh Hải Dương: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa và nguyên đơn cơ bản đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về quan điểm giải quyế t: Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ cho thấy mâu thuẫn của chị O và anh T đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận xử cho chị Tô Thị O ly hôn anh Nguyễn Văn T. Về con chung, giao cháu Nguyễn Minh Đ, sinh ngày 24/12/2014 và cháu Nguyễn Minh Kiên, sinh ngày 23/01/2019 cho chị O trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Anh T không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Về án phí: Chị O phải chịu án phí theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị Tô Thị O có đơn đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn với anh Nguyễn Văn T (có hộ khẩu thường trú tại tỉnh Hải Dương) là người Việt Nam hiện đang sinh sống tại Hàn Quốc. Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 37, Điều 39, Điều 464 BLTTDS, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương thụ lý và giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.

Tại phiên tòa, chị O vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, anh T vắng mặt lần thứ hai, căn cứ Điều 228, Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự, HĐXX tiến hành xét xử vụ án theo quy định. Tòa án xác định đây là trường hợp bị đơn cố tình giấu địa chỉ, vì vậy Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo Công văn số 253/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn giải quyết vụ án ly hôn có bị đơn là người Việt Nam ở nước ngoài nhưng không rõ địa chỉ.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị O và anh T được tự do tìm hiểu và tự nguyện kết hôn vào ngày 25 tháng 10 năm 2013 tại UBND xã N, huyện K, tỉnh Hải Dương. Vợ chồng sống hạnh phúc được một thời gian thì năm 2019, anh T đi xuất khẩu lao động tại Hàn Quốc. Từ khi anh T đi nước ngoài, vợ chồng ít liên lạc với nhau nên dần nảy sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng không hòa hợp, bất đồng về quan điểm sống, thường xuyên cãi nhau, không ai quan tâm đến cuộc sống riêng của nhau. Đến tháng 06/2021, mâu thuẫn giữa chị O và gia đình anh T ngày càng gay gắt nên chị O đã đưa cháu Nguyễn Minh Kiên về nhà bố mẹ đẻ ở và vợ chồng cũng ly thân từ đó đến nay. Chị O xác định mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Mâu thuẫn trong quan hệ hôn nhân giữa chị O, anh T cũng được gia đình anh T xác nhận. HĐXX xét thấy, hôn nhân của chị O và anh T đã lâm vào tình trạng trầm trọng, mỗi người ở một nước khác nhau, không ai quan tâm đến ai, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận cho chị O ly hôn với anh T là phù hợp quy định tại Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về quan hệ nuôi con chung: Vợ chồng chị O và anh T có 02 con chung là cháu Nguyễn Minh Đ, sinh ngày 24/12/2014 và cháu Nguyễn Minh Kiên, sinh ngày 23/01/2019. Hiện nay, cháu Kiên đang do chị O trực tiếp nuôi dưỡng, còn cháu Đ đang ở cùng mẹ anh T tại xã N, huyện K, tỉnh Hải Dương. Do cả hai cháu vẫn còn nhỏ cần sự quan tâm chăm sóc của mẹ. Bản thân chị O hiện nay cũng có nơi cư trú và việc làm ổn định có đủ khả năng để nuôi dưỡng chăm sóc cháu đầy đủ. Đồng thời, trong thời gian vừa qua cháu Đ ở với bà nội là bà Dương Thị Đ1, tuy nhiên bà Đ1 đã già yếu, bản thân cháu Đ còn quá nhỏ, trong khi không biết thời gian nào anh T về nước. Do đó, chị O đề nghị Tòa án cho chị được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung và không yêu cầu anh T cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Xét thấy, việc chăm sóc, nuôi dưỡng con chung vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của cha, mẹ. Bản thân chị O có chỗ ăn ở, có sức lao động nên đủ điều kiện nuôi con. Anh T đang đi lao động ở nước ngoài. Để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con chung nên việc giao con chung cho chị O nuôi dưỡng là phù hợp với các Điều 58, 81, 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình. Sau này, anh T về Việt Nam sinh sống có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết về việc thay đổi quyền nuôi con theo quy định. Do chị O tự nguyện tạm thời chưa yêu cầu anh T cấp dưỡng nên Tòa án không xem xét việc cấp dưỡng nuôi con chung, sau này chị O có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết việc cấp dưỡng cho con theo quy định của pháp luật.

[4] Về quan hệ tài sản chung: Chị O và anh T không yêu cầu giải quyết nên HĐXX không xem xét.

[5] Về án phí: Chị O phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 BLTTDS; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; khoản 1 Điều 28, điểm c khoản 1 Điều 37, điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147, Điều 228, Điều 238, Điều 271, Điều 273, Điều 464 và Điều 479 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Tô Thị O.

Xử cho chị Tô Thị O ly hôn anh Nguyễn Văn T.

2. Về quan hệ nuôi con chung: Giao cho chị Tô Thị O trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung cháu Nguyễn Minh Đ, sinh ngày 24/12/2014 và cháu Nguyễn Minh Kiên, sinh ngày 23/01/2019 đến khi đủ 18 tuổi trưởng thành. Chị O tự nguyện không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung. Chị O có quyền khởi kiện yêu cầu anh T cấp dưỡng tiền nuôi con chung theo quy định của pháp luật.

Anh Nguyễn Văn T có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Tô Thị O phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí sơ thẩm dân sự (Hôn nhân và gia đình), đối trừ với 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương, theo biên lai thu số AA/2020/0004584 ngày 04/11/2021. Chị O đã nộp đủ án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Chị O có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày; anh T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu yêu cầu thi hành án được thi hành theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

144
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 24/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:24/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về