Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 182/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 182/2022/HNGĐ-ST NGÀY 08/9/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 08 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 137/2022/TLST- HNGĐ ngày 17 tháng 5 năm 2022 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 240/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 29 tháng 7 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 166/2022/QĐST-HNGĐ ngày 15 tháng 8 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Phan Thị C, sinh năm 1991.

Địa chỉ: Thôn C, xã N, thành phố C, tỉnh Hải Dương.

2. Bị đơn: Anh Bùi Văn T, sinh năm 1985.

Nơi cư trú trước khi xuất cảnh: Khu dân cư Đ, phường C, thành phố C, tỉnh Hải Dương.

Nơi cư trú hiện nay: Đài Loan.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Vũ Thị N, sinh năm 1958, địa chỉ: Khu dân cư Đ, phường C, thành phố C, tỉnh Hải Dương.

Các đương sự và người làm chứng đều vắng mặt. (Chị C có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn và bản tự khai cùng các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, chị Phan Thị C trình bày: Chị và anh Bùi Văn T được tự do tìm hiểu và tự nguyện kết hôn vào ngày 22 tháng 08 năm 2011 tại UBND phường C, thành phố C, tỉnh Hải Dương. Sau khi kết hôn, chúng tôi chung sống hạnh phúc được khoảng 07 năm thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng chưa được tìm hiểu kĩ dẫn tới vợ chồng có nhiều bất đồng về quan điểm trong cuộc sống cũng như công việc, thường xuyên xảy ra cãi nhau. Đến cuối năm 2017, anh T đi xuất khẩu lao động tại Đài Loan để cải thiện kinh tế gia đình. Khi đó, chị C vừa sinh cháu thứ hai là cháu Bùi Thiên A nhưng anh T không hề quan tâm, hỏi han gì đến mẹ con, không gửi tiền về cho vợ con. Chị C xác định mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy đề nghị Tòa án xem xét giải quyết cho chị C ly hôn với anh Bùi Văn T để cả hai sớm ổn định cuộc sống.

Về con chung: Trong thời kỳ hôn nhân chị C và anh T có 02 con chung là cháu Bùi Ngọc Yến N1, sinh ngày 04/06/2012 và cháu Bùi Thiên A, sinh ngày 25/5/2016. Hiện nay, cháu N1 đang ở cùng chị C và ông bà ngoại tại thôn Chí Linh 3, xã Nhân Huệ, thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Còn cháu A đang sinh sống cùng với ông bà nội tại Khu dân cư Đ, phường C, thành phố C, tỉnh Hải Dương. Khi ly hôn, chị C có nguyện vọng được nuôi dưỡng cháu N1 còn anh T sẽ nuôi dưỡng cháu A do các cháu đều đang sinh sông ổn định. Trong thời gian anh T chưa về thì bố mẹ đẻ anh T sẽ thay mặt anh T để tiếp tục nuôi dưỡng cháu A. Do mỗi người nuôi một con nên không ai phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cho ai.

Về tài sản chung, nợ chung, công sức đóng góp với gia đình: Chị C không đề nghị Tòa án giải quyết.

Tòa án đã tiến hành lấy lời khai của bà Vũ Thị N là mẹ đẻ của anh Bùi Văn T. Tại các biên bản lấy lời khai, bà N trình bày: Anh T và chị C được tự do tìm hiểu và tự nguyện kết hôn năm 2011 tại UBND phường C, thành phố C, tỉnh Hải Dương. Hiện nay, anh T đang lao động tại Đài Loan. Anh T đã được bà thông báo các nội dung văn bản tố tụng của Tòa án. Anh T xác định tình cảm vợ chồng vẫn còn, tuy nhiên trường hợp chị C kiên quyết muốn ly hôn thì anh T nhất trí đồng ý ly hôn chị C. Về con chung, anh T đồng ý để chị C tiếp tục nuôi dưỡng con chung là cháu Bùi Ngọc Yến N1, sinh ngày 04/06/2012 còn anh T sẽ tiếp tục nuôi dưỡng cháu Bùi Thiên A, sinh ngày 25/5/2016. Không ai phải cấp dưỡng tiền nuôi con cho ai. Trong thời gian anh T chưa về nước, bà N sẽ thay mặt anh T nuôi dưỡng cháu A.

Theo thông tin do Cục Quản lý xuất nhập cảnh cung cấp tại Công văn số 11564/QLXNC-P5 ngày 08/6/2022 thể hiện: Anh Bùi Văn T, sinh ngày 20/7/1985, có thông tin xuất cảnh ngày 07/5/2017 bằng hộ chiếu số C2872204 qua cửa khẩu Nội Bài, hiện chưa có thông tin nhập cảnh.

Tại phiên tòa, chị C, anh T, bà N đều vắng mặt (chị C có đơn xin xét xử vắng mặt).

Quan điểm của đại diện VKSND tỉnh Hải Dương: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa và nguyên đơn cơ bản đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về quan điểm giải quyết: Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ cho thấy mâu thuẫn của chị C và anh T đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận xử cho chị Phan Thị C ly hôn anh Bùi Văn T; về con chung, đề nghị HĐXX giao cho chị Phan Thị C trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung là cháu Bùi Ngọc Yến N1, sinh ngày 04/06/2012; giao cho anh Bùi Văn T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung là cháu Bùi Thiên A, sinh ngày 25/5/2016. Chị C và anh T không không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Về án phí: Chị C phải chịu án phí theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị Phan Thị C có đơn đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn với anh Bùi Văn T, là người Việt Nam có hộ khẩu thường trú tại Hải Dương, hiện đang sinh sống tại Đài Loan. Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 37, Điều 39, Điều 464 BLTTDS, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương thụ lý và giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.

Tại phiên tòa, chị C vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, anh T vắng mặt lần thứ hai, căn cứ Điều 228, Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự, HĐXX tiến hành xét xử vụ án theo quy định. Tòa án xác định đây là trường hợp bị đơn cố tình giấu địa chỉ, vì vậy Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo Công văn số 253/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn giải quyết vụ án ly hôn có bị đơn là người Việt Nam ở nước ngoài nhưng không rõ địa chỉ.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị C và anh T được tự do tìm hiểu và tự nguyện kết hôn vào ngày 22 tháng 08 năm 2011 tại UBND phường C, thành phố C, tỉnh Hải Dương. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc được khoảng 07 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng có nhiều bất đồng về quan điểm trong cuộc sống cũng như công việc, kinh tế gia đình khó khăn dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi nhau. Đến cuối năm 2017, anh T đi xuất khẩu lao động tại Đài Loan. Từ khi đi nước ngoài, anh T không hề quan tâm, hỏi han gì đến vợ con và cũng chủ động cắt đứt liên lạc với chị C và vợ chồng ly thân từ đó đến nay. HĐXX xét thấy, hôn nhân của chị C và anh T đã lâm vào tình trạng trầm trọng, mỗi người ở một nước khác nhau, không ai quan tâm đến ai, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận cho chị C ly hôn với anh T là phù hợp quy định tại Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về quan hệ nuôi con chung: Vợ chồng chị C và anh T có 02 con chung là cháu Bùi Ngọc Yến N1, sinh ngày 04/06/2012 và cháu Bùi Thiên A, sinh ngày 25/5/2016. Hiện nay, cháu N1 đang ở cùng chị C và bố mẹ tại Thôn Chí Linh 3, xã Nhân Huệ, thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Còn cháu A đang sinh sống cùng với ông bà nội tại Khu dân cư Đ, phường C, thành phố C, tỉnh Hải Dương. Khi ly hôn, chị C đề nghị Tòa án cho chị được trực tiếp nuôi dưỡng con chung là cháu N1, còn anh T trực tiếp nuôi dưỡng cháu A và không ai phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Bà N là mẹ đẻ anh T xác định trong thời gian anh T ở nước ngoài, bà sẽ thay anh T trực tiếp nuôi dưỡng cháu A. Xét thấy, việc giao cháu N1 cho chị C nuôi dưỡng và giao cháu A cho anh T nuôi dưỡng là phù hợp với thực tế nhiều năm nay; phù hợp với nguyện vọng của các đương sự. Căn cứ các Điều 58, 81, 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình, HĐXX giao cháu Bùi Ngọc Yến N1 cho chị C nuôi dưỡng và giao cháu Bùi Thiên A cho anh T nuôi dưỡng. Do chị C, anh T tự nguyện tạm thời chưa yêu cầu cấp dưỡng nên Tòa án không xem xét việc cấp dưỡng nuôi con chung.

[4] Về quan hệ tài sản chung: Chị C và anh T không yêu cầu giải quyết nên HĐXX không xem xét.

[5] Về án phí: Chị C phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 BLTTDS; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; khoản 1 Điều 28, điểm c khoản 1 Điều 37, điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147, Điều 228, Điều 238, Điều 271, Điều 273, Điều 464 và Điều 479 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phan Thị C.

Xử cho chị Phan Thị C ly hôn anh Bùi Văn T.

2. Về quan hệ nuôi con chung: Giao cho chị Phan Thị C trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung là cháu Bùi Ngọc Yến N1, sinh ngày 04/06/2012 từ tháng 9/2022 đến khi đủ 18 tuổi trưởng thành.

Giao cho anh Bùi Văn T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung là cháu Bùi Thiên A, sinh ngày 25/5/2016 từ tháng 9/2022 đến khi đủ 18 tuổi trưởng thành. Trong thời gian anh T chưa về nước, bà Vũ Thị N sẽ thay mặt anh T chăm sóc, nuôi dưỡng cháu A.

Chị C, anh T tự nguyện không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung. Chị C, anh T có quyền khởi kiện yêu cầu anh T cấp dưỡng tiền nuôi con chung theo quy định của pháp luật.

Anh Bùi Văn T và chị Phan Thị C có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Phan Thị C phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí sơ thẩm dân sự (Hôn nhân và gia đình), đối trừ với 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương, theo biên lai thu số AA/2021/0000361 ngày 17/5/2022. Chị C đã nộp đủ án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Chị C có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày; anh T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

23
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 182/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:182/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về