TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG
BẢN ÁN 176/2022/HNGĐ-ST NGÀY 05/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN
Ngày 05 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 197/2022/HNGĐ- TLST ngày 29/6/2022, về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 216/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 29/7/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 152/2022/QĐ-ST ngày 17 tháng 8 năm 2022 giữa:
1. Nguyên đơn: Chị Bùi Thị Ng, sinh ngày 27/8/1989 ĐKHKTT : Thôn Lai K, xã Cộng H, huyện Kim T, tỉnh Hải Dương (vắng mặt).
2. Bị đơn : Anh Trần Đức C, sinh ngày 12/02/1986.
Nơi cư trú trước khi xuất cảnh : Thôn Lai K, xã Cộng H, huyện Kim T, tỉnh Hải Dương.
Hiện đang lao động tại Hàn Quốc (vắng mặt).
3. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan : Bà Nguyễn Thị V, sinh năm 1965 Địa chỉ : Thôn Lai K, xã Cộng H, huyện Kim T, tỉnh Hải Dương (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Theo đơn xin ly hôn, bản tự khai - Nguyên đơn chị Bùi Thị Ng trình bày: Chị và anh C tự do tìm hiểu, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Cộng H, huyện Kim T, tỉnh Hải Dương ngày 22/01/2010. Sau ngày cưới vợ chồng sống hòa thuận, hạnh phúc được 7 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do năm 2017 anh C sang Hàn Quốc lao động, vợ chồng sống xa nhau dẫn đến hai bên bất đồng quan điểm, không tìm thấy tiếng nói chung. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh C Về con chung: Vợ chồng có hai con chung là Trần Thanh H, sinh ngày 15/8/2010 và cháu Trần Đức Kh, sinh ngày 27/11/2012. Hiện hai cháu đang ở với chị, ly hôn chị có nguyện vọng được nuôi cả hai con và tự nguyện không yêu cầu anh C phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Trong thời gian đi làm kinh tế, chị ủy quyền cho mẹ đẻ là bà Nguyễn Thị V chăm sóc, nuôi dưỡng cháu H và cháu Kh.
Về tài sản chung, nợ chung: Không có, ly hôn không đề nghị Tòa án giải quyết.
Do hiện nay anh Trần Đức C đang lao động tại Hàn Quốc, không có mặt tại Việt Nam, chị Ng không cung cấp được địa chỉ của anh C ở nước ngoài nên Tòa án đã gửi các văn bản tố tụng cho ông Trần Đức Đ; địa chỉ: thôn Trung H, xã Yên H, huyện Đức Th, tỉnh Hà Tĩnh, là bố đẻ của anh C. Sau khi nhận được văn bản, ông Đ đã có văn bản gửi cho Tòa án với nội dung thể hiện: Anh C hiện đang lao động tại Hàn Quốc nhưng ông không biết địa chỉ cụ thể của anh C nên không thể cung cấp cho Tòa án. Ông xác định đã nhận được các văn bản tố tụng của Tòa án và đã thông tin cho anh C biết, anh C có quan điểm đồng ý ly hôn với chị Ng; Về con chung: Anh C đồng ý để chị Ng chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Trần Thanh H và Trần Đức Kh; Về tài sản chung, nợ chung vợ chung: Anh Kh xác định vợ chồng không có tài sản chung, nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết, đồng thời anh C đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt;
Bà Nguyễn Thị V là mẹ đẻ của chị Ng xác định, hiện tại mẹ con chị Ng đang sống cùng bà. Trong thời gian tới chị Ng sẽ đi lao động ở nước ngoài, bà đồng ý nhận văn bản tố tụng của Tòa án thay chị Ng và đồng ý chăm sóc cháu Trần Thanh H, cháu Trần Đức Kh Cháu Trần Thanh H và cháu Trần Đức Kh đều có quan điểm nếu bố mẹ ly hôn các cháu có nguyện vọng ở với mẹ, trong thời gian mẹ vắng nhà các cháu có nguyện vọng được ở với bà ngoại.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương phát biểu quan điểm:
Về việc tuân theo pháp luật: Thẩm phán, thư ký, Hội đồng xét xử và nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về quan điểm giải quyết vụ án: Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ cho thấy mâu thuẫn của chị Ng và anh C đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện, xử cho chị Ng được ly hôn anh C. Về con chung: Giao cháu Trần Thanh H, sinh ngày 15/8/2010 và cháu Trần Đức Kh, sinh ngày 27/11/2012 cho chị Ng chăm sóc nuôi dưỡng, chấp nhận sự tự nguyện của chị Ng không yêu cầu anh C cấp dưỡng tiền nuôi con. Trong thời gian chị Ng không có mặt tại Việt Nam, tạm giao cháu Kh, cháu H cho bà V chăm sóc, nuôi dưỡng.Về án phí: chị Ng phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và xem xét ý kiến của các đương sự, quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng: Nguyên đơn chị Bùi Thị Ng sinh sống tại thôn Lai K, xã Cộng H, huyện Kim Th, tỉnh Hải Dương. Anh Trần Đức C có nơi cư trú cuối cùng trước khi xuất cảnh tại thôn Lai K, xã Cộng H, huyện Kim Th, tỉnh Hải Dương, hiện đang sống và làm việc tại Hàn Quốc. Do vậy, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.
Quá trình giải quyết vụ án, chị Ng không cung cấp được địa chỉ của anh C ở Hàn Quốc.Theo hướng dẫn tại công văn số 253/TANDTC – PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân tối cao, Tòa án đã nhiều lần yêu cầu gia đình anh C cung cấp địa chỉ, nhưng gia đình không cung cấp được. Thông qua ông Trần Đức Đ là bố đẻ của anh C thì được biết, anh C thường xuyên liên lạc với ông Đ. Ông Đ đồng ý nhận các văn bản tố tụng của Tòa án và đã thông tin cho anh C biết. Tòa án cũng đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật. Do vậy áp dụng công văn số 253/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân Tối cao, Tòa án tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục cố tình giấu địa chỉ.
Hiện tại chị Ng đi làm ăn xa, chị ủy quyền cho mẹ đẻ là bà Nguyễn Thị V chăm sóc cháu Trần Đức Kh và cháu Trần Thanh H, nên Tòa án xác định bà V là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án.
Chị Ng, bà V đều có quan điểm xin được xét xử vắng mặt. Thông qua gia đình anh C cũng có quan điểm đề nghị giải quyết vắng mặt. Do vậy căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.
[2]. Về nội dung:
- Về quan hệ hôn nhân: Chị Bùi Thị Ng và anh Trần Đức C kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Cộng H, huyện Kim Th, tỉnh Hải Dương ngày 22/01/2010, do vậy hôn nhân của anh chị là hợp pháp. Sau ngày cưới vợ chồng sống hòa thuận, hạnh phúc được khoảng 7 năm. Cuối năm 2017 anh C sang Hàn Quốc lao động, do vợ chồng sống xa cách dẫn đến vợ chồng bất đồng quan điểm không tìm thấy tiếng nói chung. Nay chị Ng xác định tình cảm vợ chồng không còn và có đơn xin ly hôn anh C. Thông qua gia đình anh C cũng có quan điểm đồng ý ly hôn. Xét thấy, mâu thuẫn giữa chị Ng, anh C đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, nên có căn cứ chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Ng - Về con chung: Chị Bùi Thị Ng và anh Trần Đức C có hai con chung là Trần Thanh H, sinh ngày 15/8/2010 và Trần Đức Kh, sinh ngày 27/11/2012. Ly hôn chị Ng có nguyện vọng được nuôi con, thông qua gia đình anh C cũng đồng ý để chị Ng nuôi cả 2 con. Xét thấy, thực tế hai cháu từ nhỏ đã sống với mẹ, do vậy để đảm bảo cuộc sống ổn định cho các cháu cần tiếp tục giao cháu Kh, cháu H cho chị Ng chăm sóc, nuôi dưỡng là phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tế của các đương sự, đồng thời cũng phù hợp với nguyện vọng của các cháu. Trong thời gian chị Ng không ở Việt Nam, tạm giao cháu H, cháu Kh cho bà V chăm sóc, nuôi dưỡng. Chấp nhận sự tự nguyện của chị Ng không yêu cầu anh C cấp dưỡng tiền nuôi con chung.
- Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[3].Về án phí: Chị Bùi Thị Ng phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì những lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng Điều 56; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án. Xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Bùi Thị Ng được ly hôn anh Trần Đức C.
2.Về con chung: Giao con chung Trần Thanh H, sinh ngày 15/8/2010 và Trần Đức Kh, sinh ngày 27/11/2012 cho chị Bùi Thị Ng chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi con tròn 18 tuổi. Chấp nhận sự tự nguyện của chị Ng không yêu cầu anh C phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung.
Trong thời gian chị Bùi Thị Ng không có mặt tại Việt Nam, tạm giao cháu Trần Thanh H và cháu Trần Đức Kh cho bà Nguyễn Thị V chăm sóc, nuôi dưỡng.
Anh Trần Đức C được quyền thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được cản trở.
3. Về án phí: Chị Bùi Thị Ng phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, nhưng được đối trừ số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) chị Ng đã nộp theo biên lai thu số AA/2021/0001087 ngày 29 tháng 6 năm 2022 tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương. Chị Ng đã nộp đủ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Chị Bùi Thị Ng, bà Nguyễn Thị V được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.
Anh Trần Đức C được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 176/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 176/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hải Dương |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 05/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về