Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 166/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUY PHƯỚC, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 166/2022/HNGĐ-ST NGÀY 23/05/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN 

Ngày 23tháng 5 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 98/2022/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 02 năm 2022, về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn theoQuyết định đưa vụ án ra xét xử số: 127/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 25 tháng 4 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị N, sinh năm 1991; địa chỉ: Thôn T1, xã P, huyện T, tỉnh Bình Định; có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Võ Đăng T, sinh năm 1992; địa chỉ: Thôn M, xã P1, huyện T, tỉnh Bình Định; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 11 tháng02 năm 2022, lời khai trong quá trình giải quyết vụán,nguyên đơn chị Nguyễn Thị N trình bày: Chị và anh Võ Đăng T quen biết nhau 01 thời gian rồi tự nguyện đăng ký kết hôn. Chị và anh T đăng ký kết hôn ngày 05 tháng 10 năm 2016 tại UBND xã Phước Sơn, huyện Tuy Phước. Sau khi kết hôn, vợ chồng chị sống tại nhà cha mẹ chồng tuy nhiên cuộc sống không hạnh phúc. Nguyên nhân vì anh T có bản tính thô lỗ, không chăm lo cho vợ con. Chị góp ý thì anh T tỏ thái độ xem thường. Khi chị khuyên anh đi làm để đảm bảo kinh tế cho vợ chồng thì anh T không nghe và để mẹ con chị tự xoay sở. Vì vậy mà từ năm 2020, chị đã đưa con vào thành phố Hồ Chí Minh sinh sống. Gia đình hai bên cũng đã nhiều lần hòa giải để hàn gắn hôn nhân cho vợ chồng chị nhưng không được. Nay xét thấy tình cảm không còn nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh T.

Về con chung: Chị và anh T có 01 con chung là cháu Võ Nguyễn Quốc B, sinh ngày 14 tháng 11 năm 2017. Nếu giải quyết ly hôn, chị yêu cầu được nuôi cháu B và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ: Chị và anh T không có tài sản chung.

Tại phiên Toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Phướcphát biểu: Về thủ tục tố tụng: Tòa án tiến hành thu thập đầy đủ các tài liệu, chứng cứ liên quan đến vụ án. Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn chấp hành đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Bị đơn không chấp hành các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử cho chị N được ly hôn, giao con chung cho chị Nchăm sóc, nuôi dưỡng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Chị Nguyễn Thị N khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn, tranh chấp quyền nuôi con với anh Võ Đăng Tlà tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự. Anh T đang cư trú tại Thôn M, xã P1, huyện T, tỉnh Bình Định nêntheo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định.

[2] Về thủ tục tố tụng: Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa nhưng anh Tvẫn vắng mặt không có lý do. Chị N có đơn xin xét xử vắng mặt. Do đó, áp dụng Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt chị N, anh T.

[3] Quá trình giải quyết vụ án, chỉ có chị N cung cấp tài liệu chứng cứ. Hội đồng xét xử chỉ căn cứ vào những tài liệu chứng cứ này và kết quả thu thập chứng cứ của Tòa án để giải quyết vụ án.

[4] Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Nvà anh Võ Đăng Ttự nguyện đăng ký kết hôn ngày 05 tháng 10 năm 2016 tại UBND xã Phước Sơn, huyện Tuy Phước nên hôn nhân giữa chị N, anh Tlà hôn nhân hợp pháp. Chị N yêu cầu ly hôn. Hội đồng xét xử xét thấy: Chị N và anh T có cách sống không hợp nhau. Mặc dù vẫn còn là vợ chồng nhưng chị N và anh T đã sống ly thân, gia đình cũng đã hòa giải nhưng không hàn gắn được. Điều đó có thể chứng minh tình trạng hôn nhân giữa chị N, anh Tđã lâm vào tình trạng trầm trọng không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài, nếu duy trì cuộc hôn nhân này cũng không đem lại hạnh phúc cho cả hai. Do đó, áp dụng Điều 51, khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình, cho chị N được ly hôn anh T.

[5] Về quan hệ con chung: Chị N, anh Tcó 01 con chung là cháu Võ Nguyễn Quốc B, sinh ngày 14 tháng 11 năm 2017. Hội đồng xét xử xét thấy, trong thời gian sống ly thân,chị N là người trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cháu B và vẫn đảm bảo điều kiện để cháu được phát triển bình thường. Do đó,áp dụng khoản 2 Điều 81 của Luật hôn nhân vàgia đình giao cháu Bcho chị N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Chị Nkhông yêu cầu cấp dưỡng nên Hội đồng xét xử không xét.

[6] Về tài sản chung và nợ:Chị Nkhông yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xét.

[7] Về án phí: Theo quy định tạiĐiều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, chị Nguyễn Thị Nphải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, khoản 1 Điều 56, khoản 2 Điều 81,các Điều 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình; Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Tuyên xử:

1.Cho chị Nguyễn Thị Nđược ly hôn anh Võ Đăng T.

2. Giao con chung là cháu Võ Nguyễn Quốc B, sinh ngày 14 tháng 11 năm 2017cho chị Nguyễn Thị Ntrực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Cháu B đang sống với chị N.Anh T không phải cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở; nhưng không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc làm ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, cũng như việc cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3.Chị Nguyễn Thị Nphải chịu 300.000 (ba trăm nghìn)đồngán phíly hôn nhưng được khấu trừ vào300.000 (ba trăm nghìn) đồng tiền tạmứngán phímà chị Nđã nộp theo biên lai thu tiền số0006055ngày16 tháng 02 năm 2022 củaChi cục Thi hànhán dân sự huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định.

Đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

132
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 166/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:166/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuy Phước - Bình Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về