TÒA ÁN NHẤN DÂN HUYỆN TÂN PHÚ, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 12/2022/HNGĐ-ST NGÀY 09/03/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN
Ngày 09/3/2022, tại Hội trường xét xử Toà án nhân dân huyện Tân Phú, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 364/2021/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 12 năm 2021 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 12/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 21/02/2022 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Tu Thị Diễm H, sinh năm: 1992. HKTT: Ấp P, xã P1, huyện T1, tỉnh Đồng Nai.
Chỗ ở: Khu phố H1, thị trấn Đ, huyện Đ1, tỉnh Đồng Nai Bị đơn: Anh Lê Sơn L, sinh năm: 1985.
Địa chỉ: Ấp P, xã P1, huyện T1, tỉnh Đồng Nai.
(Chị H, anh L có đơn đề nghị xét xử vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 07/12/2021, lời khai trong quá trình tố tụng của nguyên đơn chị Tu Thị Diễm H thể hiện:
Về quan hệ hôn nhân: Chị H và anh Lê Sơn L tự tìm hiểu yêu thương rồi kết hôn với nhau vào năm 2013. Hôn nhân của chị và anh L được Uỷ ban nhân dân xã P1, huyện T1 cấp Giấy chứng nhận kết hôn ngày 18/12/2013. Sau khi kết hôn vợ chồng chị sinh sống tại gia đình anh L địa chỉ: Ấp P, xã P1, huyện T1, tỉnh Đồng Nai. Cuộc sống chung vợ chồng hạnh phúc đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do tính tình vợ chồng không hợp, bất đồng quan điểm sống, anh L không quan tâm chăm sóc gia đình nên vợ chồng hay xảy ra cãi nhau. Từ tháng 6/2021 cho đến nay, chị bỏ ra ngoài sinh sống, vợ chồng không còn sống chung với nhau và không còn quan tâm, chăm sóc nhau nữa. Tình cảm của chị đối với anh L không còn nên chị yêu cầu được ly hôn với anh L.
Về con chung: Chị và anh L có 02 (hai) con chung là Lê Hoàng Thảo M, sinh ngày 16/12/2014 và Lê Hoàng Minh T, sinh ngày 21/9/2016. Từ khi không sống chung, cháu M do chị nuôi dưỡng, đối với cháu T cả 02 gia đình thay phiên nhau chăm sóc. Khi ly hôn, chị yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu M và đồng ý giao cháu T cho anh L trực tiếp nuôi dưỡng. Không bên nào cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung, nợ chung: Vợ chồng không có tài sản chung, nợ chung nên không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.
Tại bản tự khai ngày 17/12/2021, lời khai trong quá trình tố tụng ý kiến, yêu cầu của bị đơn anh Lê Sơn L thể hiện:
Về quan hệ hôn nhân: Anh L và chị Tu Thị Diễm H tự tìm hiểu yêu thương rồi kết hôn với nhau vào năm 2013. Hôn nhân của anh chị được Uỷ ban nhân dân xã P1, huyện T1 cấp Giấy chứng nhận kết hôn ngày 18/12/2013. Cuộc sống chung vợ chồng hạnh phúc đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, mâu thuẫn về vấn đề tiền bạc nên vợ chồng hay xảy ra cãi nhau. Từ tháng 9/2021 đến nay, anh và chị H không còn sống chung với nhau. Trong thời gian không sống chung, vợ chồng không quan tâm chăm sóc nhau. Nay chị H yêu cầu ly hôn thì anh không đồng ý ly hôn vì lý do anh vẫn còn yêu thương vợ, mặt khác anh theo đạo công giáo không được phép ly hôn. Nay chị H yêu cầu ly hôn thì Tòa án căn cứ theo quy định của pháp luật mà giải quyết.
Về con chung: Anh và chị H có 02 (hai) con chung là Lê Hoàng Thảo M, sinh ngày 16/12/2014 và Lê Hoàng Minh T, sinh ngày 21/9/2016. Khi ly hôn, anh yêu cầu được nuôi dưỡng cháu T và đồng ý giao cháu M cho chị H nuôi dưỡng. Không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung, nợ chung: Vợ chồng không có tài sản chung, nợ chung nên không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.
Trong quá trình giải quyết vụ án chị H đã cung cấp những tài liệu, chứng cứ sau: Chứng minh nhân dân và sổ hộ khẩu của chị H, anh L (bản sao); Giấy chứng nhận kết hôn (bản chính); Giấy khai sinh của các con (bản sao).
Để giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành thu thập chứng cứ sau: Bản tự khai của nguyên đơn, bị đơn; Biên bản xác minh về tình trạng hôn nhân, điều kiện nuôi con của các đương sự; Đơn thể hiện nguyện vọng của cháu M. Các tài liệu, chứng cứ nêu trên đã được Tòa án ra thông báo cho các bên đương sự biết đồng thời tiến hành mở phiên họp kiểm tra giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải chị H, anh L không có ý kiến và bổ sung gì thêm.
Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa sơ thẩm:
- Về việc tuân theo pháp luật: Trong quá trình thụ lý, giải quyết và tại phiên tòa xét xử sơ thẩm; Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký phiên tòa và các đương sự tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
- Về quan điểm quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn.
+ Về quan hệ hôn nhân: Cho chị H được ly hôn anh L.
+ Về quan hệ nuôi con và cấp dưỡng nuôi con: Giao con chung tên Lê Hoàng Thảo M cho chị H chăm sóc, nuôi dưỡng. Giao con chung tên Lê Hoàng Minh T cho anh L chăm sóc, nuôi dưỡng. Tạm thời chị H, anh L không phải cấp dưỡng nuôi con.
+ Về tài sản chung, nợ chung: Chị H và anh L khai báo không có và không yêu cầu nên không xem xét, giải quyết nên không xem xét.
+ Về án phí: Chị H phải chịu 300.000đ án phí DSST về ly hôn theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Tại phiên tòa, chị H và anh L vắng mặt do anh, chị có đơn xin vắng mặt nên các đương sự không cung cấp thêm tài liệu chứng cứ nào khác.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về áp dụng pháp luật tố tụng:
[1.1]. Xác định thẩm quyền giải quyết và quan hệ pháp luật: Anh L có địa chỉ tại xã P1, huyện T1, tỉnh Đồng Nai. Vì vậy, căn cứ theo điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ Luật tố tụng dân sự xác định vụ án thuộc thẩm quyền thụ lý, giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tân Phú. Chị H yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn, tranh chấp về nuôi con. Vì vậy, xác định quan hệ pháp luật là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự.
[1.2]. Xác định tư cách đương sự: Ngày 07/12/2021, chị H khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh L. Căn cứ theo khoản 2, khoản 3 Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự xác định chị H là nguyên đơn, anh L là bị đơn trong vụ án.
[1.3] Chị H, anh L có đơn đề nghị xét xử vắng mặt phiên tòa. Căn cứ vào khoản 1 điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn theo quy định của pháp luật.
[2]. Về áp dụng pháp luật nội dung:
[2.1]. Về quan hệ hôn nhân: Hôn nhân giữa chị H, anh L là hợp pháp được Uỷ ban nhân dân xã P1, huyện T1 cấp Giấy chứng nhận kết hôn ngày 18/12/2013. Chị H có đơn yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết theo thủ tục chung về ly hôn mà Luật hôn nhân và gia đình quy định.
Xét lời khai của chị H, anh L và tài liệu, chứng cứ thu thập trong quá trình tiến hành tố tụng thể hiện: Chị H, anh L sống hòa thuận, hạnh phúc đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm, không có tiếng nói chung. Từ tháng 9/2021 đến nay, chị H và anh L không còn sống chung với nhau. Trong thời gian không sống chung, vợ chồng không quan tâm, chăm sóc nhau. Anh L cũng thừa nhận từ tháng 9/2021 đến nay, anh và chị H không còn sống chung với nhau. Trong thời gian không sống chung, vợ chồng không quan tâm, chăm sóc nhau, nay anh không đồng ý ly hôn là do anh còn yêu thương chị H và theo đạo công giáo không được phép ly hôn.
Qua xác minh tại địa phương đã xác định được gia chị H và anh L đã xảy ra nhiều mâu thuẫn, không hòa giải đoàn tụ được, vợ chồng không còn sống chung với nhau từ tháng 9/2021 cho đến nay.
Như vậy, có căn cứ xác định chị H và anh L đã vi phạm nghĩa vụ thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, vi phạm nghĩa vụ sống chung của vợ chồng được quy định tại Điều 19 Luật hôn nhân và gia đình làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Để anh, chị sớm có điều kiện ổn định cuộc sống của mình, căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp chận yêu cầu của chị H, cho chị được ly hôn với anh L.
[2.2]. Về quan hệ nuôi dưỡng con:
Chị H và anh L có 02 (hai) con chung là Lê Hoàng Thảo M, sinh ngày 16/12/2014 và Lê Hoàng Minh T, sinh ngày 21/9/2016.
Khi ly hôn, chị H yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu M và đồng ý giao cháu T cho anh L trực tiếp nuôi dưỡng. Không bên nào cấp dưỡng nuôi con. Anh L cũng đồng ý theo yêu cầu của chị H. Cháu M có nguyện vọng được sống chung với chị H. Từ các căn cứ trên, để đảm bảo quyền lợi cho con chung, tránh sự xáo trộn đời sống tâm lý của con chung, Hội đồng xét xử quyết định giao cháu Lê Hoàng Thảo M, sinh ngày 16/12/2014 cho chị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục và giao cháu Lê Hoàng Minh T, sinh ngày 21/9/2016 cho anh L trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình.
Chị H, anh L không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung nên tạm thời Hội đồng xét xử không xem xét mức cấp dưỡng nuôi con khi ly hôn. Khi nào có tranh chấp về việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con sẽ giải quyết bằng vụ kiện khác.
[2.3]. Về tài sản chung, nợ chung: Chị H, anh L khai báo không có. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét.
[3]. Về án phí: Chị H phải nộp 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) án phí Dân sự sơ thẩm về ly hôn.
[4]. Về quyền kháng cáo: Đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Xét quan điểm đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
- Các Điều 28, 35, 39, 147, 228, 235 và Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự;
- Điều 19, 51, 56, 58, 81, 82, 83, 84 và Điều 131 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 91, 92, 93, 94 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000;
- Điểm a khoản 1 Điều 24; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Tu Thị Diễm H.
- Về quan hệ hôn nhân: Chị Tu Thị Diễm H được ly hôn với anh Lê Sơn L.
- Về con chung và cấp dưỡng nuôi con chung: Giao cháu Lê Hoàng Thảo M, sinh ngày 16/12/2014 cho chị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Giao cháu Lê Hoàng Minh T, sinh ngày 21/9/2016 cho anh L trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Tạm thời chị H, anh L không phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Chị H, anh L có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được cản trở. Vì quyền lợi của con chung, các bên đương sự được quyền xin thay đổi việc nuôi con và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.
- Về tài sản chung, nợ chung: Không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.
2. Về án phí: Chị H phải nộp 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn. Số tiền 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) chị H đã nộp tạm ứng án phí tại biên lai thu số 0002182 ngày 10/12/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai chuyển thành án phí.
3. Về quyền kháng cáo: Chị Tu Thị Diễm H và anh Lê Sơn L có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày được tính kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án theo quy định của pháp luật.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 12/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 12/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tân Phú - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 09/03/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về