Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 11/2020/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 11/2020/HNGĐ-ST NGÀY 14/01/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 14 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân Thành phố Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 21/2020/ TLST- HNGĐ ngày 15 tháng 10 năm 2020 về “Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 22/2020/QĐXX-ST ngày 31 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lê Thị Ngọc L , sinh năm 2000 HKTT: SN... LNT, phường ĐT, thành phố TH, tỉnh TH Nơi ở hiện tại: NT, phường ĐH, thành phố TH, tỉnh TH

- Bị đơn: Anh Hoàng Văn T , sinh năm 1997 HKTT và nơi ở: NT, phường ĐH, thành phố TH, tỉnh TH Hiện đang chấp hành hình phạt tù tại: ............. Trại giam Thanh Lâm - Như Xuân - Thanh Hóa 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, bản tự khai và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Lê Thị Ngọc L trình bày:

Chị và anh Hoàng Văn T tự nguyện chung sống với nhau có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Đông Hương, TP.Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do bất đồng về lối sống, anh T không tu chí làm ăn, ham chơi, nghiện ma túy, chị và gia đình góp ý khuyên can, anh T không sửa đổi mà còn nhiều lần đánh chửi, đe dọa chị, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc. Từ tháng 6/2018 anh T đi chấp hành án tù 07 năm về tội mua bán trái phép chất ma túy, thời gian anh T đi chấp hành án chị có vài lần lên thăm, từ tháng 07/2020 do mâu thuẫn nên chị không lên thăm anh T nữa. Đến nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa giải quyết cho chị ly hôn anh Hoàng Văn T . Về con chung: Chị và anh T có 01 con chung là Hoàng Thị Hoài A , sinh ngày 27/11/2016. Chị xin được trực tiếp nuôi con chung sau khi ly hôn và không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con chung vì hiện tại anh T đang phải chấp hành án phạt tù không có điều kiện nuôi con và cấp dưỡng. Về tài sản chung và nợ chung chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về phía bị đơn Hoàng Văn T , tại bản tự khai của mình anh T trình bày thống nhất với ý kiến của chị L về thời gian điều kiện kết hôn cũng như thực trạng đời sống vợ chồng. Anh xác định từ năm 2018 (khi anh đi chấp hành án) vợ chồng đã sống ly thân, tuy nhiên anh đang còn tình cảm với chị L nên anh không đồng ý ly hôn; Về con chung: Anh T thống nhất như trình bày của chị L : Vợ chồng có 01 con chung là Hoàng Thị Hoài A , sinh ngày 27/11/2016. Anh có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con sau khi chấp hành xong hình phạt tù. Về tài sản chung và nợ chung: Anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Kết quả xác minh tại địa phương phường Đông Hương, TP. Thanh Hóa xác định: Hiện tại anh T đang đi chấp hành án tù. Về mâu thuẫn giữa chị L và anh T chị L có báo cáo địa phương việc anh T đánh đập chị và chị xin ly hôn. Về con chung anh T chị L có 01 con chung hiện tại đang ở với chị L .

Tại phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải ngày 31/12/2020, anh T không có mặt nên Tòa án không tiến hành hòa giải được. Tuy nhiên Tòa án đã phân tích động viên Chị L khắc phục mâu thuẫn để vợ chồng đoàn tụ, song chị L kiên quyết giữ nguyên quan điểm xin được ly hôn anh T và xin được trực tiếp nuôi con sau ly hôn.

Tại phiên tòa hôm nay, anh Hoàng Văn T vắng mặt và đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; Chị L giữ nguyên yêu cầu khởi kiện: Chị xác định mâu thuẫn giữa chị với anh T thực sự trầm trọng, bản thân chị không còn tình cảm với anh T nên chị kiên quyết xin được ly hôn anh T và xin trực tiếp nuôi con chung, không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con; Về tài sản chung nợ chung chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ý kiến của đại diện VKS: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, thư ký và HĐXX, việc chấp hành pháp luật của chị L , anh T kể từ khi toà án thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm HĐXX nghị án đã tuân thủ đúng quy định. Về nội dung: Đại diện VKS đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn khởi kiện “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”, bị đơn có hộ khẩu thường trú tại phường Đông Hương, TP. Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa do vậy vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân TP.

Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa theo quy định tại các Điều 28, 35, 39 - BLTTDS; Tại phiên tòa hôm nay, anh T vắng mặt nhưng đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, HĐXX căn cứ Điều 227 - BLTTDS để xét xử vắng mặt anh Hoàng Văn T .

[2] Về hôn nhân: Chị Lê Thị Ngọc L và anh Hoàng Văn T tự nguyện kết hôn, được Ủy ban nhân dân phường Đông Hương, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 22/7/2019, như vậy là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do bất đồng về quan điểm sống và lối sống nên chị L xin ly hôn. Về phía anh T không đồng ý ly hôn, song quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã phân tích động viên chị L khắc phục mâu thuẫn để vợ chồng đoàn tụ nhưng chị L kiên quyết xin ly hôn. Tại phiên tòa, chị L khẳng định chị không còn tình cảm với anh T và không thể tiếp tục chung sống với anh T . Xét mâu thuẫn giữa chị L và anh T đã thực sự trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, yêu cầu ly hôn của chị L là có cơ sở. HĐXX căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình 2014 chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị L .

[3] Về con chung: Chị Lê Thị Ngọc L và anh Hoàng Văn T có 01 con chung là Hoàng Thị Hoài A , sinh ngày 27/11/2016. Chị L xin được trực tiếp nuôi con chung và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con. Nguyện vọng của chị L là hoàn toàn tự nguyện, chính đáng, không trái quy định của pháp luật đảm bảo quyền lợi của con. Vì vậy, giao cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng con chung là đúng với quy định tại các Điều 81, 82 Luật Hôn nhân và gia đình. Đối với nguyện vọng được trực tiếp nuôi con sau khi chấp hành xong án phạt tù của anh T , anh có quyền làm đơn yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con theo quy định của pháp luật sau khi chấp hành xong án phạt tù.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Đương sự không yêu cầu giải quyết, Hội đồng xét xử không xét.

[5] Về án phí: Chị Lê Thị Ngọc L là nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại Điều 6; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án.

Các đương sự có quyền kháng cáo theo luật định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Điều 28; Điều 35; Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 227; Điều 271; Điều 273; Điều 278 và Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Khoản 1 Điều 56; Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình;

Điều 6; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

Về hôn nhân: Xử cho chị Lê Thị Ngọc L ly hôn anh Hoàng Văn T .

Về con chung: Giao cháu Hoàng Thị Hoài A , sinh ngày 27/11/2016 là con chung của chị L anh T cho chị Lê Thị Ngọc L trực tiếp nuôi dưỡng. Anh Hoàng Văn T không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị L .

Anh Hoàng Văn T có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở Về tài sản chung và nợ chung: Chị Lê Thị Ngọc L , anh Hoàng Văn T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí: Chị Lê Thị Ngọc L phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng chị đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2018/0001509 ngày 12/10/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa. Chị L đã nộp đủ án phí.

Về quyền kháng cáo: Chị Lê Thị Ngọc L có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Hoàng Văn T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án theo quy định của pháp luật.

Bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7,9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hịên theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

682
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 11/2020/HNGĐ-ST

Số hiệu:11/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về