Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 10/2024/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN H, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 10/2024/HNGĐ-ST NGÀY 23/01/2024 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 23 tháng 01 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện H xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 310/2023/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 10 năm 2023 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 109/2023/QĐXX-ST ngày 12 tháng 12 năm 2023 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Hà Thị Ng, sinh năm 1990. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

Địa chỉ: Khu ph, thị Trấn L , huyện L, tỉnh Thanh Hóa.

2. Bị đơn: Anh Lê Mạnh H, sinh năm 1988. Vắng mặt Địa chỉ: Thôn 3, xã Hoằng T, huyện H, tỉnh Thanh Hóa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 25/10/2023, bản tự khai ngày 30/10/2023 nguyên đơn chị Hà Thị Ng thể hiện:

Tôi (Ng) và anh Lê Mạnh H tự nguyện kết hôn với nhau năm 2011 được UBND xã Hoằng Tr, huyện H, tỉnh Thanh Hóa cấp giấy chứng nhận kết hôn. Sau khi cưới vợ chồng sống với nhau bình thường đến năm 2021 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh H không chịu khó làm ăn, chơi bời về nhà phá đồ đạc, đã nhiều lần tôi động viên nhưng không được, nên đến năm 2021 vợ chồng sống ly thân không ai quan tâm đến ai. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, nên tôi làm đơn này đề nghị Tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn với anh H.

Về con: Vợ chồng tôi có 03 con chung cháu tên là Lê Hà Phương L, sinh ngày 10/6/2012; Lê Hà Thùy D, sinh ngày 28/4/2019; Lê Hà Thanh Tr, sinh ngày 23/10/2020. Hiện nay cháu Hà Phương L đang ở với anh H; cháu D và cháu Tr đang ở với tôi, nay ly hôn tôi có nguyện vọng được nuôi cháu D, cháu Tr và đồng ý giao cháu L cho anh H trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng .

Về cấp dưỡng: Tôi không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản và công nợ: Tôi không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Lê Mạnh H: Tòa án triệu tập nhiều lần nhưng anh H vẫn vắng mặt không có lý do. Tòa án đã giao thông báo về việc thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, Quyết định đưa vụ án ra xét xử cho bà Hà Thị M (mẹ đẻ anh H) và bà M cam đoan có trách nhiệm giao thông báo lại cho anh H.

Tại biên bản ghi lời khai của bà Hà Thị M ngày 10/11/2023 thể hiện:

Con tôi là Lê Mạnh H và chị Hà Thị Ng tự nguyện kết hôn được UBND xã Hoằng Tr cấp giấy chứng nhận kết hôn năm 2011. Sau khi cưới được một thời gian thì vợ chồng sống phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do chị Ng sinh hai cháu gần nhau nên bà ngoại có trao đổi với tôi là để bà đỡ đần cho một thời gian nên gia đình đã đồng ý, chị Ng về ngoại ở từ cuối năm 2021 cho đến nay. Anh H chị Ng không có mâu thuẫn nên anh H mong muốn vợ chống đoàn tụ để nuôi dạy con.

Nay chị Ng làm đơn xin ly hôn tôi sẽ có trách nhiệm thông báo cho anh H( hiện nay anh H đi làm ăn, sáng đi tối về tôi đã thông báo về việc chị Ng làm đơn xin ly hôn cho anh H biết). Nay tôi sẽ nhận thay các văn bản tố tụng cho con trai tôi và cam đoan giao tận tay cho anh H.

Về con chung: Chị Hà Thị Ng và anh Lê Mạnh H có 03 con chung cháu tên là Lê Hà Phương L, sinh ngày 10/6/2012; Lê Hà Thùy D, sinh ngày 28/4/2019; Lê Hà Thanh Tr, sinh ngày 23/10/2020, từ khi vợ chồng sống ly thân cháu L ở với anh H. Cháu D và cháu Tr ở với chị Ng. Về tài sản: Không đề nghị Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai của cháu Lê Hà Phương L: Cháu mong muốn bố mẹ đoàn tụ, nếu phải ly hôn cháu có nguyện vọng được ở với bố.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm về quá trình tố tụng và đề xuất hướng giải quyết vụ án:

+ Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã tuân thủ đầy đủ, đảm bảo trình tự, thủ tục từ khi thụ lý, tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Nguyên đơn chị Hà Thị N đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, 71 của BLTTDS. Bị đơn anh Lê Mạnh H chưa thực thực hiện đầy đủ các quyền, nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, 72 theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung: Căn cứ Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.

Về hôn nhân: Xử cho chị Hà Thị Ng được ly hôn anh Lê Mạnh H.

Về con chung: Công nhận chị Hà Thị Ng và anh Lê Mạnh H có 03 con chung cháu tên là Lê Hà Phương L, sinh ngày 10/6/2012; Lê Hà Thùy D, sinh ngày 28/4/2019; Lê Hà Thanh Tr, sinh ngày 23/10/2020. Từ khi vợ chồng sống ly thân cháu D và cháu Tr ở với chị Ng, chị là người trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng các cháu, cháu L ở với anh H; bản tự khai của cháu L thể hiện được ở với bố. Giao cháu Lê Hà Thùy D và cháu Lê Hà Thanh Tr cho chị Ng trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng. Giao cháu Lê Hà Phương L cho anh H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng: Các đương sự không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

Về tài sản, công nợ: Các đương sự không có yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

Về án phí: Áp dụng khoản 4 Điều 147 BLTTDS 2015; Điều 24, Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 chị Ng phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

Tại phiên tòa nguyên đơn không có sự thay đổi, bổ sung, rút toàn bộ về yêu cầu khởi kiện.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về thủ tục tố tụng: Chị Hà Thị Ng khởi kiện xin ly hôn anh Lê Mạnh H và xin được nuôi con chung. Căn cứ vào quy định tại Điều 68 BLTTDS xác định chị Hà Thị Ng là nguyên đơn, anh Lê Mạnh H là bị đơn.

[1.2] Về thẩm quyền giải quyết: Anh Lê Mạnh H có địa chỉ tại xã Hoằng Tr, huyện H, tỉnh Thanh Hóa. Do đó căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 35, 39 Bộ luật tố tụng dân sự xác định yêu cầu khởi kiện của chị Hà Thị Ng thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Thanh Hóa nên được xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật.

[1.3] Về quan hệ pháp luật: Chị Hà Thị Ng khởi kiện xin ly hôn anh Lê Mạnh H và đề nghị Tòa án giải quyết việc nuôi con chung nên được xác định là tranh chấp hôn nhân gia đình thuộc lĩnh vực dân sự.

Tòa án đã tiến hành xác minh nguyên nhân dẫn đến tình trạng tranh chấp mâu thuẫn theo quy định tại khoản 3 Điều 208 Bộ luật tố tụng dân sự, chính quyền địa phương xã Hoằng Tr xác nhận: Chị Hà Thị Ng và anh Lê Mạnh H tự nguyện kết hôn được UBND xã Hoằng Tr cấp giấy chứng nhận kết hôn năm 2011, sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc được một thời gian thì có mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn địa phương không nắm bắt được.Vợ chồng anh chị có 03 con chung cháu tên là Lê Hà Phương L, sinh ngày 10/6/2012; Lê Hà Thùy D, sinh ngày 28/4/2019; Lê Hà Thanh Tr, sinh ngày 23/10/2020.

Tại phiên tòa ngày 27/12/2023, bị đơn anh Lê Mạnh H vắng mặt không có lý do mặc dù đã được triệu tập hợp lệ nên HĐXX hoãn phiên tòa. Căn cứ khoản 1 Điều 227, Điều 233, 235 của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa hôm nay, anh H vắng mặt không có lý do nên căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử đưa vụ án ra xét xử vắng mặt bị đơn là đúng quy định của pháp luật.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về hôn nhân: Chị Hà Thị Ng và anh Lê Mạnh H kết hôn với nhau vào năm 2011 trên cơ sở tự nguyện, do Ủy ban nhân dân xã Hoằng Tr, huyện H cấp giấy chứng nhận kết hôn theo đúng quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật hôn nhân gia đình, là hôn nhân hợp pháp.

Vợ chồng anh chị sống với nhau hòa thuận một thời gian ngắn thì xảy ra mâu thuẫn, không thể hòa giải được. Chị Ng có nguyện vọng xin được ly hôn anh H. Anh H có nguyện vọng được đoàn tụ nhưng đến nay chị Ng vẫn cương quyết xin được ly hôn anh. Tòa án thụ lý vụ án từ ngày 26/10/2023 cho đến nay chị Ng vẫn giữ quan điểm xin được ly hôn anh H. Như vậy, anh H vẫn không có biện pháp hàn gắn tình cảm vợ chồng. Do đó, HĐXX xét thấy tình cảm của anh, chị thực sự không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy cần áp dụng Điều 51,56 Luật hôn nhân gia đình, chấp nhận yêu cầu của chị Hà Thị Ng là cho chị được ly hôn với anh Lê Mạnh H là phù hợp với tình trạng hôn nhân của anh chị.

[2.2] Về con chung: Chị Hà Thị Ng và anh Lê Mạnh H có 03 con chung cháu tên là Lê Hà Phương L, sinh ngày 10/6/2012; Lê Hà Thùy D, sinh ngày 28/4/2019; Lê Hà Thanh Tr, sinh ngày 23/10/2020.

Xét yêu cầu nuôi con của chị Hà Thị Ng: Xét thấy, yêu cầu nuôi con của chị Ng là phù hợp vì từ khi vợ chống sống ly thân cháu D và cháu Tr ở cùng với chị, chị là người trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng hai cháu, các cháu đang còn nhỏ cần có sự quan tâm chăm sóc của mẹ hơn bố. Do đó, chấp nhận yêu cầu của chị Ng giao cháu Tr và cháu D cho chị Ng tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng.

Xét yêu cầu nuôi con của anh H: Từ khi vợ chống sống ly thân cháu L ở với anh, anh đảm bảo cho cháu ăn học và phát triển; Tại bản khai của cháu cũng thể hiện cháu có nguyện vọng được ở với bố( H). Chị Ng cũng đồng ý giao cháu cho anh H nuôi dưỡng. Do đó, giao cháu Lê Hà Phương L cho anh H tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng: Chị Hà Thị Ng và anh Lê Mạnh H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

[3] Về tài sản: Chị Hà Thị Ng và anh Lê Mạnh H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

[4] Về án phí: Nguyên đơn là chị Hà Thị Ng phải chịu 300.000đ tiền án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật được trừ vào tiền tạm ứng án phí chị Ng đã nộp.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; Điều 39; khoản 4 Điều 147, Điều 207; Điều 227; Điều 228; Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Căn cứ Điều 51,56,57,58, 81,82,83 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ Điều 24; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

Về hôn nhân: Chị Hà Thị Ng được ly hôn anh Lê Mạnh H.

Về con chung: Công nhận cháu Lê Hà Phương L, sinh ngày 10/6/2012;

Lê Hà Thùy D, sinh ngày 28/4/2019; Lê Hà Thanh Tr, sinh ngày 23/10/2020 là con chung của chị Hà Thị Ng và anh Lê Mạnh H.

Giao cháu Lê Hà Thùy D, Lê Hà Thanh Tr cho chị Ng trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng; Giao cháu Lê Hà Phương L cho anh H trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng đến khi các cháu đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi về pháp luật.

Anh H, chị Ng có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung. Chị Ng, anh H và các thành viên trong gia đình không ai được cản trở. Nếu anh H, chị Ng lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì anh, chị có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con.

Về án phí: Chị Hà Thị Ng phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm ly hôn, trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2021/ 0011733 ngày 26 tháng 10 năm 2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện H. Chị Ng đã thi hành xong.

Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7,7a và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguyên đơn chị Hà Thị Ng, bị đơn anh Lê Mạnh H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ nhận bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

24
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 10/2024/HNGĐ-ST

Số hiệu:10/2024/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hoằng Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:23/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về