Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 10/2024/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỸ XUYÊN, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 10/2024/HNGĐ-ST NGÀY 26/01/2024 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 26 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và Gia đình thụ lý số 178/2023/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 10 năm 2023 về ly hôn và tranh chấp về nuôi con, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 368/2023/QĐXXST-HNGĐ ngày 15 tháng 12 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 02/2024/QĐST-DS ngày 04 tháng 01 năm 2023, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Lê Hồng T, sinh năm 1994 (Có đơn xin vắng mặt) Địa chỉ: Ấp X, xã L, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng.

- Bị đơn: Ông Trần Thanh Q, sinh năm 1994 (Vắng mặt) Địa chỉ: Ấp L, xã N, huyện M, tỉnh Sóc Trăng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 07 tháng 8 năm 2023 và tại đơn xin vắng mặt ngày 04/01/2024, nguyên đơn bà Lê Hồng T trình bày: Bà Lê Hồng T và ông Trần Thanh Q xây dựng hôn nhân vào năm 2017 và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng; đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 196 ngày 06/12/2017. Trong thời gian sống chung, bà Lê Hồng T và ông Trần Thanh Q có hai người con chung là cháu Trần Thanh L, sinh ngày 08/8/2018 và cháu Trần Thanh B, sinh ngày 25/9/2020. Hiện cháu Trần Thanh L, sinh ngày 08/8/2018 đang sống chung với ông Trần Thanh Q và cháu Trần Thanh B, sinh ngày 25/9/2020 đang sống chung với bà Lê Hồng T. Về tài sản chung, nợ chung không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong thời gian chung sống, giữa bà Lê Hồng T và ông Trần Thanh Q thường xuyên phát mâu thuẫn, cãi vả với nhau do bà Lê Hồng T và ông Trần Thanh Q tính tình không hòa hợp, quan điểm sống không tương đồng. Nguyên nhân chính do ông Trần Thanh Q không lo làm ăn. Hơn nữa, ông Trần Thanh Q không quan tâm, chăm sóc chồng con dẫn đến đời sống vợ chồng không hạnh phúc nên giữa bà Lê Hồng T và ông Trần Thanh Q đã ly thân. Nay bà Lê Hồng T yêu cầu ly hôn với ông Trần Thanh Q. Khi ly hôn về con chung bà Lê Hồng T yêu cầu được nuôi dưỡng con chung là cháu Trần Thanh B, sinh ngày 25/9/2020. Bà Lê Hồng T đồng ý giao cháu Trần Thanh L, sinh ngày 08/8/2018 cho ông Trần Thanh Q nuôi dưỡng và bà Lê Hồng T không cấp dưỡng và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung không có, không yêu cầu giải quyết. Ngoài ra, bà Lê Hồng T không còn yêu cầu nào khác.

Đối với yêu cầu khởi kiện của bà Lê Hồng T thì ông Trần Thanh Q đã được Tòa án nhân dân huyện Mỹ Xuyên tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án và giấy triệu tập ông Trần Thanh Q đến Tòa án để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng ông Trần Thanh Q không đến Toà án mà vắng mặt tại các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cũng như xét xử và cũng không có văn bản gởi cho Tòa án biết về ý kiến yêu cầu của ông Trần Thanh Q đối với yêu cầu khởi kiện của bà Lê Hồng T. Do vậy, Tòa án căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ do bà Lê Hồng T cung cấp và do Tòa án thu thập được để làm cơ sở giải quyết vụ án.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Xuyên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Thư ký phiên tòa, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và quan điểm giải quyết vụ án như sau:

- Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Thư ký phiên tòa và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng được quy định tại các Điều 70, 71 Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn chưa thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ tố tụng được quy định tại các Điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, các Điều 147, 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Lê Hồng T đối với ông Trần Thanh Q. Về con chung, giao cháu Trần Thanh B, sinh ngày 25/9/2020 cho bà Lê Hồng T tiếp tục trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục và giao cháu Trần Thanh L, sinh ngày 08/8/2018 cho ông Trần Thanh Q tiếp tục trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục; Bà Lê Hồng T và ông Trần Thanh Q không phải cấp dưỡng nuôi con do bà Lê Hồng T và ông Trần Thanh Q; Bà Lê Hồng T và ông Trần Thanh Q có quyền, nghĩa vụ thăm nom con, không ai được cản trở. Về tài sản chung, nợ chung, không có, không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết. Về án phí, bà Lê Hồng T phải chịu 300.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Bà Lê Hồng T khởi kiện yêu cầu ly hôn và tranh chấp về nuôi con khi ly hôn đối với ông Trần Thanh Q và hiện nay ông Trần Thanh Q cư trú tại ấp L, xã N, huyện M, huyện M, tỉnh Sóc Trăng nên Tòa án nhân dân huyện Mỹ Xuyên thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Ông Trần Thanh Q đã được triệu tập tham gia phiên hòa giải hai lần nhưng đều vắng mặt nên vụ án không hòa giải được, phải đưa ra xét xử. Tòa án đã tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa và giấy triệu tập tham gia phiên tòa sơ thẩm cho ông Trần Thanh Q, nhưng tại phiên tòa hôm nay, ông Trần Thanh Q vẫn vắng mặt không có lý do, còn bà Lê Hồng T có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt, nên căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà Lê Hồng T và ông Trần Thanh Q.

[2] Về nội dung: Bà Lê Hồng T và ông Trần Thanh Q chung sống có đăng ký kết hôn và đã được Ủy ban nhân dân xã L, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng và được cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 196 ngày 06/12/2017 nên được xem là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ.

[3] Xét lý do yêu cầu ly hôn của bà Lê Hồng T, Hội đồng xét xử thấy rằng, bà Lê Hồng T yêu cầu ly hôn với ông Trần Thanh Q do tính tình không hòa hợp, quan điểm sống không tương đồng và thường xuyên phát sinh mâu thuẫn, đời sống vợ chồng không hạnh phúc nên bà Lê Hồng T và ông Trần Thanh Q đã sống ly thân với nhau và không có biện pháp gì hàn gắn. Trong khi đó, mặc dù biết rõ Tòa án nhân dân huyện Mỹ Xuyên đang thụ lý, giải quyết yêu cầu xin ly hôn của bà Lê Hồng T đối với ông Trần Thanh Q và ông Trần Thanh Q đã được Tòa án nhân dân huyện Mỹ Xuyên nhiều lần triệu tập đến Tòa án để hòa giải nhưng ông Trần Thanh Q có thái độ bỏ mặc, không thể hiện thiện chí và mong muốn được hàn gắn mối quan hệ hôn nhân giữa ông Trần Thanh Q với bà Lê Hồng T. Từ đó, có căn cứ khẳng định tình trạng mâu thuẫn trong hôn nhân giữa bà Lê Hồng T và ông Trần Thanh Q đã phát sinh trầm trọng, đời sống chung đã không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy, cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Lê Hồng T đối với ông Trần Thanh Q, cho bà Lê Hồng T được ly hôn ông Trần Thanh Q.

[4] Về con chung, Sau khi ly hôn, bà Lê Hồng T yêu cầu được nuôi dưỡng con chung là cháu Trần Thanh B, sinh ngày 25/9/2020. Bà Lê Hồng T đồng ý giao cháu Trần Thanh L, sinh ngày 08/8/2018 cho ông Trần Thanh Q nuôi dưỡng và bà Lê Hồng T không cấp dưỡng và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, hiện tại cháu Trần Thanh B, sinh ngày 25/9/2020 đang sống chung với bà Lê Hồng T và cháu Trần Thanh L, sinh ngày 08/8/2018 đang sống chung với ông Trần Thanh Q. Do đó, không nhất thiết thay đổi môi trường sinh sống của cháu cháu Trần Thanh B và cháu Trần Thanh L nên cần thiết giao cháu Trần Thanh B cho bà Lê Hồng T tiếp tục trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục và giao cháu Trần Thanh L cho ông Trần Thanh Q tiếp tục trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Vì vậy, chấp nhận yêu cầu của bà Lê Hồng T, giao cháu Trần Thanh B cho bà Lê Hồng T tiếp tục trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục và giao cháu Trần Thanh L cho ông Trần Thanh Q tiếp tục trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.

Do bà Lê Hồng T và ông Trần Thanh Q không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên không đặt ra giải quyết.

Bà Lê Hồng T và ông Trần Thanh Q có quyền, nghĩa vụ thăm nom con, không ai được cản trở theo quy định tại khoản 3 Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Bà Lê Hồng T xác định không có tài sản chung và nợ chung và không yêu cầu giải quyết nên không yêu cầu giải quyết.

[6] Về án phí dân sự sơ thẩm về Hôn nhân và Gia đình, bà Lê Hồng T phải nộp 300.000 đồng; bà Lê Hồng T đã nộp tạm ứng án phí 300.000 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0010357 ngày 16 tháng 10 năm 2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mỹ Xuyên nên được chuyển thu án phí.

[7] Các quan điểm đề xuất việc giải quyết vụ án của Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Xuyên tại phiên tòa, như đã phân tích, là có căn cứ nên cần chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 56, 57, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc hội và mục A của Danh mục án phí, lệ phí Tòa án (Ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016):

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Lê Hồng T đối với ông Trần Thanh Q. Cho ly hôn giữa bà Lê Hồng T với ông Trần Thanh Q.

2. Về con chung: Giao cháu Trần Thanh B, sinh ngày 25/9/2020 cho bà Lê Hồng T tiếp tục trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục và giao cháu Trần Thanh L, sinh ngày 08/8/2018 cho ông Trần Thanh Q tiếp tục trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến tuổi trưởng thành.

Do bà Lê Hồng T và ông Trần Thanh Q không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên không đặt ra giải quyết.

Bà Lê Hồng T và ông Trần Thanh Q có quyền, nghĩa vụ thăm nom con, không ai được cản trở theo quy định tại khoản 3 Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Không có và không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.

4. Về án phí: Án phí dân sự sơ thẩm về Hôn nhân và Gia đình, bà Lê Hồng T phải nộp 300.000 đồng; bà Lê Hồng T đã nộp tạm ứng án phí 300.000 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0010357 ngày 16 tháng 10 năm 2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mỹ Xuyên nên được chuyển thu án phí.

Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, tính từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ, để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử lại theo trình tự phúc thẩm.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu cầu thi hành án, thoả thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7, 7a, và Điều 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

25
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 10/2024/HNGĐ-ST

Số hiệu:10/2024/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỹ Xuyên - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về