Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 09/2024/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẢO THẮNG - TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 09/2024/HNGĐ-ST NGÀY 28/02/2024 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 28 tháng 02 năm 2024 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 181/2023/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 11 năm 2023 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 18 tháng 01 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số 11/2024/QĐST-HNGĐ ngày 30/01/2024 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Trần Văn Nh - Sinh năm: 1992.

Địa chỉ: Thôn H, xã P, huyện B, tỉnh L- Có mặt.

2. Bị đơn: Chị Hoàng Thị D - Sinh năm: 1991.

Địa chỉ: Thôn H, xã P, huyện B, tỉnh L - Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện gửi đến Tòa án và bản tự khai cũng như tại phiên tòa, anh Trần Văn Nh trình bày:

Anh và chị Hoàng Thị D kết hôn vào ngày 13/11/2015 tại Uỷ ban nhân dân xã Phú Nhuận, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai. Sau khi kết hôn vợ chồng anh chị chung sống đến tháng 03 năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống trong làm ăn kinh tế cũng như nuôi dậy con cái. Từ đó vợ chồng thiếu sự chia sẻ trong gia đình, không tìm được tiếng nói chung, thường xuyên xô xát đánh cãi chửi nhau làm ảnh hưởng đến con cái, gia đình không hạnh phúc. Mâu thuẫn của anh chị đã được hai bên gia đình khuyên bảo nhưng tình cảm vẫn không cải thiện được mà mâu thuẫn ngày càng trầm trọng hơn. Anh chị đã sống ly thân từ đầu năm 2023 đến nay, không còn quan tâm đến nhau. Bản thân anh xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, nên đến nay anh đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Hoàng Thị D.

Về con chung: Anh chị có 02 người con chung là cháu Trần Thị Khánh L, sinh ngày: 02/03/2016 và cháu Trần Hoàng Bảo A, sinh ngày: 09/03/2019. Quá trình giải quyết vụ án, anh Nh có nguyện vọng nuôi cháu Ly và cháu An đến tuổi trưởng thành, không yêu cầu chị D cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Về tài sản chung: Anh chị tự thỏa thuận về tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thực hiện việc tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật nhưng chị D không đến Tòa án để viết bản tự khai và giải quyết vụ án.

Tòa án đã tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận không khai chứng cứ và hòa giải, tuy nhiên Toà án không hòa giải được về quan hệ hôn nhân vì vắng mặt bị đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Anh Trần Văn Nh khởi kiện xin ly hôn với chị Hoàng Thị D. Bị đơn có đăng ký hộ khẩu thường trú tại xã Phú Nhuận, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai. Vì vậy đây là tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai theo quy định tại Điều 28 và Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa anh Trần Văn Nh và chị Hoàng Thị D là hợp pháp. Quá trình chung sống, anh chị phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, thiếu sự chia sẻ trong gia đình, không tìm được tiếng nói chung. Từ đó vợ chồng thường xuyên xô xát đánh cãi chửi nhau làm ảnh hưởng đến con cái, cuộc sống không hạnh phúc, vợ chồng sống ly thân từ đầu năm 2023 đến nay không còn quan tâm đến nhau.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thực hiện việc tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật nhưng chị Hoàng Thị D không đến Tòa án để giải quyết vụ án. Mâu thuẫn của vợ chồng anh Nh đã được địa phương xác nhận là đúng sự thật.

Vì vậy việc anh Nh xin ly hôn với chị D là có căn cứ, phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

Do chị Hoàng Thị D không đến Tòa án để giải quyết vụ án, Tòa án đã thực hiện việc tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật. Vì vậy Tòa án xét xử vắng mặt chị D là phù hợp với quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về con chung: Anh chị có 02 người con chung là cháu Trần Thị Khánh L, sinh ngày 02/03/2016 và cháu Trần Hoàng Bảo A, sinh ngày 09/03/2019. Quá trình giải quyết vụ án, anh Nh có nguyện vọng nuôi dưỡng cháu Trần Thị Khánh L và cháu Trần Hoàng Bảo A đến tuổi trưởng thành và không yêu cầu chị D cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Xét thấy, quá trình giải quyết vụ án chị D không đến Tòa án để trình bày nguyện vọng nuôi con và giải quyết vụ án, anh Nh thì có nguyện vọng nuôi dưỡng con chung, anh Nh đã cung cấp đơn có xác nhận của địa phương về mức thu nhập của bản thân, đảm bảo điều kiện nuôi con. Vì vậy cần giao cháu Trần Thị Khánh L và cháu Trần Hoàng Bảo A cho anh Nh trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình, phù hợp với nguyện vọng của cháu Ly. Do anh Nh không yêu cầu chị D cấp dưỡng tiền nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản chung: Tài sản chung anh chị tự thỏa thuận nên không yêu cầu Tòa án giải quyết; Vì vậy Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[5] Về án phí: Anh Nh phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, 57, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm b khoản 2 Điều 227, Khoản 3 Điều 228, Khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng Dân sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

1. Xử cho anh Trần Văn Nh được ly hôn với chị Hoàng Thị D. Quan hệ hôn nhân giữa anh Trần Văn Nh và chị Hoàng Thị D chấm dứt kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

2. Về con chung: Xử giao cháu Trần Thị Khánh L, sinh ngày: 02/03/2016 và cháu Trần Hoàng Bảo A, sinh ngày: 09/03/2019 cho anh Trần Văn Nh trực tiếp nuôi dưỡng, trông nom, chăm sóc, giáo dục cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi;

Chị Hoàng Thị D không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Sau khi ly hôn, chị Hoàng Thị D có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Anh Trần Văn Nh phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai số 0000980 ngày 16/11/2023 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai; Anh Trần Văn Nh đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt nguyên đơn, vắng mặt bị đơn. Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

4
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 09/2024/HNGĐ-ST

Số hiệu:09/2024/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bảo Thắng - Lào Cai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/02/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về