Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 09/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 09/2021/HNGĐ-ST NGÀY 28/12/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 28 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 24/2021/TLST- HNGĐ ngày 21 tháng 10 năm 2021 về "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 30/2021/QĐXX-ST ngày 13 tháng 12 năm 2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Phạm Thị Thu H- sinh năm 1988 ĐKHKTT: Số nhà 06 Đào Duy Từ, phường B, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa.

Nơi ở hiện nay: Số nhà ** đường T, phường L, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa.

Bị đơn: Anh Lê Đức L- sinh năm 1988 ĐKHKTT: Số nhà ** đường P, phường P, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa. Nơi ở hiện nay: Số nhà ** đường T, phường L, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa.

Tại phiên tòa có mặt chị H, vắng mặt anh L.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, được bổ sung tại bản tự khai, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, chị Phạm Thị Thu H trình bày:

- Về hôn nhân: Chị và anh L kết hôn với nhau trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, có tìm hiểu, có đăng ký kết hôn tại UBND phường P, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa vào năm 2009. Quá trình vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc đến khoảng năm 2015 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng về quan điểm, trái ngược về lối sống. Vợ chồng đã cố gắng thay đổi bản thân để gìn giữ gia đình nhưng không có kết quả. Vợ chồng anh chị đã ly thân từ tháng 02 năm 2021 cho đến nay, không còn quan tâm, chăm sóc đến nhau. Nay chị H xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Đề nghị Tòa án giải quyết cho chị ly hôn với anh L.

- Về con chung: Anh chị có 03 con chung là các cháu: Lê Khánh L, sinh ngày 20/4/2009; Lê Khánh H, sinh ngày 14/6/2015 và Lê Khánh M, sinh ngày 25/4/2020. Ly hôn chị H có nguyện vọng được trực tiếp nuôi cả ba cháu và yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con chung mỗi cháu 2.000.000đ (hai triệu đồng)/ tháng. Thời gian cấp dưỡng kể từ khi Tòa án có quyết định hoặc bản án đến khi các cháu thành niên.

- Về tài sản, công nợ: Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tại bản tự khai và quá trình giải quyết vụ án anh Lê Đức L trình bày như sau:

- Về hôn nhân: Anh L trình bày thống nhất với chị H về thời gian, điều kiện kết hôn. Theo anh L, gần đây cuộc sống vợ chồng anh xảy ra nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân do giữa hai người có lối sống trái ngược nhau. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên chị H có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết xin ly hôn đối với anh thì anh cũng đồng ý.

- Về con chung: Anh chị có 03 con chung là các cháu: Lê Khánh L, sinh ngày 20/4/2009; Lê Khánh H, sinh ngày 14/6/2015 và Lê Khánh M, sinh ngày 25/4/2020. Ly hôn, anh L đồng ý để chị H được trực tiếp nuôi cả ba cháu. Tại bản tự khai ngày 24/10/2021 anh L đề nghị cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật. Sau đó tại đơn xin vắng mặt tại phiên hòa giải và tại phiên tòa, anh L đồng ý cấp dưỡng nuôi con chung mỗi cháu 2.000.000đ (hai triệu đồng)/ tháng.

- Về tài sản, công nợ: Anh L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh Lê Đức Ltheo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, anh L không đến Tòa làm việc mà chỉ gửi ý kiến bằng văn bản qua đường bưu điện đồng thời đã làm đơn xin vắng mặt tại các phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ, phiên hòa giải và phiên tòa. Tại bản tự khai cũng như tại các tài liệu khác, anh L đều giữ nguyên quan điểm đồng ý ly hôn với chị H.

* Qua thu thập chứng cứ tại địa phương thể hiện: Chị H và anh L sau khi kết hôn sinh sống tại số nhà 237 Tống Duy Tân, phường Lam Sơn, thành phố Thanh Hóa từ năm 2016 cho đến nay. Quá trình anh chị sống tại địa phương vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn của anh chị không thể hiện ra bên ngoài nên chính quyền địa phương không cung cấp được cho Tòa án. Anh chị có ba con chung. Chị H làm nghề buôn bán quần áo. Anh L làm nghề lao động tự do, thường xuyên đi làm ăn xa. Nay chị H làm đơn khởi kiện ly hôn anh L, quan điểm của địa phương đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

* Tại phiên tòa hôm nay, anh L xin vắng mặt, chị H giữ nguyên yêu cầu ly hôn; về con chung: đề nghị Tòa án giao cả ba cháu L, H, M cho chị trực tiếp nuôi dưỡng, anh L cấp dưỡng nuôi con chung mỗi cháu 2.000.000đ (hai triệu đồng)/ tháng. Thời gian cấp dưỡng kể từ tháng 01 năm 2022 đến khi các cháu thành niên; về tài sản công nợ chung: chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm giải quyết vụ án: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và nguyên đơn, bị đơn đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Về yêu cầu khởi kiện, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Đây là tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn và bị đơn có nơi đăng ký hộ khẩu thường trú tại thành phố Thanh Hóa. Việc Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa thụ lý, giải quyết là đúng quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Anh L có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa. Căn cứ vào khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt anh L.

[2] Về nội dung:

Về hôn nhân: Chị H và anh L kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền là hôn nhân hợp pháp. Cả hai anh chị đều thừa nhận giữa vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do giữa vợ chồng bất đồng về quan điểm, trái ngược về lối sống. Cả hai vợ chồng đã cố gắng thay đổi bản thân để gìn giữ gia đình nhưng không có kết quả. Anh chị đã ly thân từ tháng 02/2021 cho đến nay không ai còn quan tâm, chăm sóc đến ai. Thu thập chứng cứ tại địa phương và gia đình của anh chị cũng thể hiện giữa vợ chồng anh chị có xảy ra mâu thuẫn. Nay chị H đề nghị được ly hôn đối với anh L, quan điểm của anh L đồng ý ly hôn với chị H, tuy nhiên quá trình giải quyết vụ án anh L không lên Tòa làm việc mà chỉ gửi ý kiến bằng văn bản, đồng thời vắng mặt tại các phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ, phiên hòa giải và phiên tòa. Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng anh chị đã trầm trọng, cả hai đều xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân gia đình để xử cho chị H được ly hôn với anh L.

Về con chung: Anh chị có 03 con chung là các cháu: Lê Khánh L, sinh ngày 20/4/2009; Lê Khánh H, sinh ngày 14/6/2015 và Lê Khánh M, sinh ngày 25/4/2020. Ly hôn, chị H đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được trực tiếp nuôi cháu cả ba cháu L, H, M. Xét thấy việc giao con cho ai nuôi dưỡng cần xem xét mọi mặt và quyền lợi của con chưa thành niên. Chị H và anh L có 03 con chung, trong đó một cháu chưa đủ 36 tháng tuổi, cần sự chăm sóc của người mẹ. Trong khi đó, anh L làm nghề lao động tự do, thường xuyên đi làm ăn xa không có điều kiện gần gũi, chăm sóc các con. Hiện các cháu đều đang ở với chị H, chị H làm nghề buôn bán quần áo do đó chị có đủ điều kiện về kinh tế để nuôi dưỡng và đảm bảo chăm sóc tốt cho các cháu. Mặt khác ý kiến của anh L cũng đồng ý giao con cho chị H nuôi, cháu L cũng có nguyện vọng được ở với chị H.

Về cấp dưỡng, chị H yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con chung mỗi cháu 2.000.000đ (hai triệu đồng)/ tháng. Tại ý kiến gửi đến Tòa án, anh L đồng ý cấp dưỡng nuôi con chung mỗi cháu 2.000.000đ (hai triệu đồng)/ tháng.

Từ các phân tích nêu trên, có căn cứ để chấp nhận nguyện vọng của chị H là được tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục các cháu L, H và M, anh L cấp dưỡng nuôi con chung mỗi cháu 2.000.000đ (hai triệu đồng)/ tháng (ba cháu là 6.000.000 đồng/ tháng) theo quy định tại các điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình.

Về tài sản, công nợ: Chị H, anh L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[3]. Về án phí: Chị H phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm, anh L phải chịu 300.000đ án phí cấp dưỡng theo định kỳ. Theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và điểm a khoản 5, khoản 6 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Khoản 1 Điều 228, Điều 271, khoản 1 điều 273, Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình;

điểm a khoản 5, khoản 6 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14 .

Về hôn nhân: Xử cho chị Phạm Thị Thu H ly hôn anh Lê Đức L.

Về con chung: Chị H và anh L có 03 con chung là các cháu: Lê Khánh L, sinh ngày 20/4/2009; Lê Khánh H, sinh ngày 14/6/2015 và Lê Khánh M, sinh ngày 25/4/2020. Giao cháu L, H, M cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, anh L cấp dưỡng nuôi con chung mỗi cháu 2.000.000đ (hai triệu đồng)/tháng. Thời gian cấp dưỡng kể từ tháng 01 năm 2022 đến khi các cháu đủ tuổi thành niên.

Anh L có quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở.

Về tài sản, công nợ: Anh L và chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí: Chị Phạm Thị Thu H phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị đã nộp theo biên lai số AA/2021/0001293 ngày 20/10/2021 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa (Chị H đã nộp đủ án phí).

Anh L phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí cấp dưỡng theo định kỳ. Người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận (hoặc niêm yết) bản án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 09/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:09/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:28/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về