TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH Đ
BẢN ÁN 06/2024/HNGĐ-ST NGÀY 01/02/2024 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN
Ngày 01 tháng 02 năm 2024, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Đ, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 07/2023/TLST-HNGĐ, ngày 18 tháng 10 năm 2023 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”; Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2023/QĐXXST-HNGĐ ngày 28 tháng 12 năm 2023, Quyết định hoãn phiên toà số 04/2024/QĐST-DS ngày 19/01/2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Tòng Thị H; Địa chỉ: Bản P, xã N, huyện Đ, tỉnh Đ (Vắng mặt có lý do);
2. Bị đơn: Anh Tòng Văn D; Địa chỉ: Bản L, xã N, thành phố B, tỉnh Đ (Vắng mặt không có lý do).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Tòng Thị H trình bày:
- Về hôn nhân: Chị H và anh D kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã N, huyện Đ (Nay là thành phố B), tỉnh Đ. Quá trình chung sống, thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc, sau đó thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do bất đồng quan điểm trong cuộc sống gia đình vì không có sự hiểu nhau, anh D không có trách nhiệm với gia đình, bản thân anh D nghiện chất ma tuý, gia đình đã nhiều lần khuyên can, nhưng anh D không bỏ được ma tuý, vợ chồng đã sống ly thân nhau từ năm 2020 cho đến nay, không ai còn quan tâm đến ai, do tình cảm vợ chồng đã hết, có cố gắng hàn gắn cũng không có hạnh phúc nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh D.
- Về con chung: Vợ chồng có một con chung là cháu Tòng Thị Bích T - sinh ngày 18/9/2006, hiện nay cháu T đang sinh sống cùng chị, để bảo đảm cho cuộc sống của cháu không bị sáo trộn, chị có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung. Không yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con chung.
- Về tài sản và nợ: Không có, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Chị H đã nhận được quyết định đưa vụ án ra xét xử và giấy triệu tập của Tòa án, nhưng do chị ở xa, công việc bận, nên chị làm đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt chị.
Tại biên bản xác minh ngày 30/11/2023, trưởng bản L, xã N, thành phố B, tỉnh Đ xác nhận:
Chị H và anh D cư trú và sinh sống tại bản L, xã N. Trong quá trình sinh sống, chính quyền địa phương chưa bao giờ phải can thiệp hay chứng kiến các mâu thuẫn của vợ chồng chị H và anh D. Hiện anh D đi đâu, làm gì chính quyền địa phương cũng không biết.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Đ phát biểu ý kiến:
- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử vụ án, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử, nghị án thấy rằng Thẩm phán thực hiện đúng các quy định tại Điều 48 Bộ luật tố tụng dân sự. Việc thụ lý vụ án, thu thập chứng cứ và tiến hành các thao tác tố tụng đã tuân thủ là đúng quy định. Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký tại phiên tòa: Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng các quy định của BLTTDS về việc xét xử sơ thẩm vụ án. Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng theo các quy định của BLTTDS.
- Ý kiến về việc giải quyết vụ án:
+ Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Vụ án Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn Tòa án thụ lý và giải quyết là đúng theo quy định tại Điều 28, 35, 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
+ Về nội dung vụ án: Áp dụng khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, khoản 2 Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 147/BLTTDS; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí tòa án đề nghị: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” của chị Tòng Thị H đối với anh Tòng Văn D. Cụ thể:
Về hôn nhân: Chị Tòng Thị H được ly hôn với anh Tòng Văn D.
Về con chung: Giao con chung là cháu Tòng Thị Bích T - sinh ngày 18/9/2006 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc. Anh D không phải cấp dưỡng nuôi con. Các bên có quyền và nghĩa vụ đối với con chung theo quy định của pháp luật.
Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về án phí: Chị Tòng Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí đối với yêu cầu ly hôn.
Tại phiên tòa vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng dân sự: Chị Tòng Thị H có đơn yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đ giải quyết ly hôn quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn anh Tòng Văn D có địa chỉ cư trú tại xã N, thành phố B. Nên theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đ.
Chị H có đơn xin xét xử vắng mặt, anh D đã được toà án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do, Toà án đã thực hiện việc niêm yết các văn bản tố tụng theo đúng quy định của pháp luật, nên Toà án vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại Điều 228, 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2]. Về nội dung giải quyết yêu cầu của đương sự:
2.1. Về hôn nhân: Hôn nhân của chị H và anh D được xây dựng trên cơ sở tự nguyên, không bị ai ép buộc, có đăng ký kết hôn tại UBND xã N, thành phố B nên xác định là quan hệ hôn nhân hợp pháp.
Quá trình chung sống, chị H cho rằng vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do bất đồng quan điểm trong cuộc sống gia đình vì không có sự hiểu nhau, anh D không có trách nhiệm với gia đình, vợ chồng đã nhiều lần hoà giải nhưng không thành. Trong quá trình giải quyết vụ án chị H vẫn kiên quyết xin ly hôn, anh D không có mặt tại nơi cư trú, chính quyền xã N xác nhận anh D không có mặt tại địa phương, đi đâu làm gì không ai biết, nên anh không có mặt tại toà án để trình bày ý kiến của mình.
Hội đồng xét xử thấy rằng: Hôn nhân của vợ chồng phải được xây dựng trên cơ sở tự nguyện, quan tâm, chăm sóc lẫn nhau. Trong đơn khởi kiện cũng như trong suốt quá trình giải quyết vụ án chị H khẳng định chị không còn tình cảm với anh D, không ai còn quan tâm đến ai, vợ chồng đã sống ly thân nhau từ năm 2020, hiện anh D đi đâu, làm gì chị H cũng không biết, chị tha thiết đề nghị Tòa án cho chị được ly hôn với anh D.
Xét thấy: Tình trạng hôn nhân giữa chị H và anh D cho đến nay đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy cần xử cho chị H được ly hôn với anh D là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.
2.2. Về con chung: Chị H khai vợ chồng có một con chung là cháu Tòng Thị Bích T - sinh ngày 18/9/2006, hiện nay cháu T đang sinh sống cùng chị H. Nguyện vọng của chị H là được trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng cháu Thuỷ, không yêu cầu anh D phải cấp dưỡng nuôi con chung. Xét thấy: Anh D hiện không có mặt tại địa phương, cháu Thuỷ hiện đang sống cùng chị H, hơn nữa cháu Thuỷ cũng có nguyện vọng muốn được ở cùng với mẹ, nên việc để chị H được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung là phù hợp, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
2.3. Về tài sản và nợ: Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[3]. Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án chị H phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84, Luật Hôn nhân và gia đình, khoản 1 Điều 28; Điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 228, Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Tòng Thị H về việc: Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn.
1.1. Về hôn nhân: Chị Tòng Thị H được ly hôn với anh Tòng Văn D;
1.2. Về con chung: Chị H được quyền trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Tòng Thị Bích T - sinh ngày 18/9/2006 đến khi cháu thành niên hoặc đến khi có thay đổi khác. Chị H không yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con chung.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Vì lợi ích của con, trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân gia đình, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con.
1.3. Về tài sản và nợ: Đương sự không yêu cầu, nên không đề cập giải quyết.
2. Về án phí: Áp dụng khoản 4 Điều 147/BLTTDS, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, chị Tòng Thị H phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tại biên lai thu tiền số 0000013 ngày 13/10/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B, tỉnh Đ. Chị H đã nộp đủ tiền án phí.
3. Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 271, Điều 273/BLTTDS, Chị H và anh D được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc Tòa án niêm yết bản án.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 06/2024/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 06/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 01/02/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về