Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 06/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 06/2021/HNGĐ-ST NGÀY 21/01/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 21 tháng 01 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ, Thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số: 151/2021/TLST- HNGĐ ngày 28 tháng 10 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 51/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 15 tháng 12 năm 2021, Quyết định hoãn phiên tòa số 01/2022/QĐ- HNGĐ ngày 04 tháng 01 năm 2022 giữa các đương sự:

- Ngun đơn: Chị Lê Thị H, sinh năm 1986; Nơi ĐKHKTT: Thôn H, xã L, huyện Đ, Thành phố Hà Nội; hiện trú tại: Cụm 5, xã T, huyện Đ, Thành phố Hà Nội; có mặt;

- Bị đơn: Anh Nguyễn Đức T, sinh năm 1985; Nơi ĐKHKTT: Cụm 6, xã Đ, huyện Đ, Thành phố Hà Nội; hiện trú tại: Cụm 5, xã T, huyện Đ, Thành phố Hà Nội; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện và các lời khai tiếp theo, nguyên đơn là chị Lê Thị H trình bày - Về tình cảm: Chị kết hôn với anh Nguyễn Đức T trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 27/9/2018 tại Uỷ Ban nhân dân xã Đ, huyện Đ, Thành phố Hà Nội. Do vợ chồng không có chỗ ở, nên sau khi kết hôn vợ chồng về ở nhờ nhà mẹ đẻ tại Cụm 5, xã T, huyện Đ, Thành phố Hà Nội. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, đến tháng 5/2019 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh Tchơi bời cờ bạc, không chú tâm làm ăn, bỏ bê vợ con. Gia đình hai bên đã nhiều lần khuyên ngăn nhưng anh Tkhông thay đổi. Cuộc sống vợ chồng luôn căng thẳng, không có tiếng nói chung, thường xuyên cãi nhau. Từ ngày 25/5/2019 vợ chồng sống ly thân nhau, việc ai người đó làm, không còn quan tâm tới nhau. Nay, chị thấy tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không tiếp tục được, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Thịnh.

- Về con chung: Vợ chồng chị có một con chung là cháu Nguyễn Gia Hưng, sinh ngày 27/11/2019, hiện chị đang nuôi dưỡng. Khi ly hôn, chị xin được nuôi con và không yêu cầu anh Tcấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung, công sức với hai bên gia đình, nợ chung: Chị H xác định không có.

* Bị đơn là anh Nguyễn Đức T, đã được Toà án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng anh đều vắng mặt, không lý do, vì vậy Tòa án không lấy được lời khai của anh Thịnh.

- Tại Biên bản xác minh với Công an xã Đ, huyện Đ, Thành phố Hà Nội thể hiện: Anh Nguyễn Đức T, sinh năm 1985, đã vắng mặt tại địa phương, hiện anh Tđi đâu, làm gì thì Công an xã không nắm được.

- Tại Biên bản xác minh với Công an xã T, huyện Đ, Thành phố Hà Nội thể hiện: Anh Nguyễn Đức T, sinh năm 1985 (Nơi ĐKHKTT: Cụm 6, xã Đ, huyện Đ, Thành phố Hà Nội) và vợ là chị Lê Thị H, sinh năm 1986 (Nơi ĐKHKTT: Thôn H, xã L, huyện Đ, Thành phố Hà Nội) không đăng ký tạm trú tại cụm 5, xã T, Đan Phượng. Nhưng hiện nay anh Tvà Chị H đang sinh sống tại nhà mẹ đẻ Chị H tại Cụm 5, xã T, huyện Đ.

- Tại Biên bản làm việc với Phòng Lao động Thương binh - Xã hội huyện Đ thể hiện: Chị H và anh Tđều có chỗ ở ổn định, có công việc, thu nhập đủ sống. Nếu Chị H và anh Tkhông thể chung sống cùng nhau được mà phải ly hôn, đề nghị Tòa án nhân dân huyện Đ, Thành phố Hà Nội xem xét giải quyết về quyền nuôi con chung theo quy định của pháp luật, đảm bảo quyền và lợi ích của cháu Hưng, không làm ảnh hưởng đến tâm lý của trẻ.

- Tại Biên bản lấy lời khai ngày 24/11/2021, bà Trần Thị Nhị là mẹ đẻ Chị H trình bày: Bà là mẹ đẻ của chị Lê Thị H, sau khi anh Tvà Chị H kết hôn, do anh TChị H không có chỗ ở, bà có một ngôi nhà bỏ không tại Cụm 5, xã T nên bà cho vợ chồng anh Thịnh, Chị H ở nhờ. Vợ chồng anh Thịnh, Chị H ở đó từ khi kết hôn cho tới giờ. Việc Chị H xin ly hôn, bà có biết. Anh Tvà Chị H sống với nhau không có hạnh phúc, nay Chị H xin ly hôn, bà đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đ tại phiên tòa phát biểu ý kiến: Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã tuân thủ theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Quan điểm giải quyết vụ án: Về yêu cầu xin ly hôn của Nguyên đơn. Xét thấy tình cảm của anh Tvà Chị H không còn, anh chị phát sinh mâu thuẫn đã lâu, sống ly thân nhiều năm, từ 2019 đến nay, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 57 Luật Hôn nhân gia đình, chấp nhận đơn khởi kiện của chị Lê Thị H, đề nghị Hội đồng xét xử, xử cho Chị H được ly hôn anh Thịnh.

Về con chung: Anh chị có một con chung là cháu Nguyễn Gia Hưng, sinh ngày 27/11/2019, hiện đang ở với Chị H. Cháu Hưng còn nhỏ (dưới 36 tháng tuổi), Chị H xin được nuôi con. Đề nghị Hội đồng xét xử, xử, giao cháu Nguyễn Gia Hưng cho Chị H tiếp tục nuôi dưỡng. Chị H không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho đến khi có yêu cầu, là đúng quy định tại các Điều 58, 81, 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân gia đình.

Về tài sản chung, công sức với hai bên gia đình, nợ chung: Chị H xác định không có.

Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Nguyên đơn là chị Lê Thị H có đơn xin ly hôn, giải quyết nuôi con khi ly hôn với anh Nguyễn Đức T. Anh Thiện đang sinh sống tại xã T, huyện Đ, Thành phố Hà Nội. Xác định quan hệ tranh chấp là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đ theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 3 Điều 36, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã mở các phiên hòa giải nhưng không hòa giải được, lý do Bị đơn đều vắng mặt, nên Tòa án nhân dân huyện Đ đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử theo đúng quy định của pháp luật.

Bị đơn đã được Toà án triệu tập hợp lệ lần hai những vắng mặt không có lý do, Toà án xét xử vắng mặt Bị đơn là đúng quy định tại khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2]. Về nội dung [2.1]. Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Chị Lê Thị H và anh Nguyễn Đức T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký ngày 27/9/2018 tại Ủy Ban nhân dân xã Đ, huyện Đ, Thành phố Hà Nội, vì vậy xác định là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại khoản 1 Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc, đến tháng 5/2019 thì phát sinh mâu thuẫn, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, vợ chồng đã ly thân nhau từ ngày 25/5/2019 đến nay. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần mở phiên hòa giải nhưng anh Tđều vắng mặt không có lý do. Xét thấy, anh Thịnh, Chị H sống ly thân từ lâu, không còn quan tâm đến nhau. Hai bên gia đình đã khuyên bảo, hòa giải nhiều, nhưng vợ chồng vẫn không đoàn tụ được. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định mâu thuẫn giữa Chị H và anh Tlà trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nên xử cho Chị H được ly hôn anh Tlà phù hợp với quy định tại Điều 51 và Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.2]. Về con chung: Chị H và anh Tcó một con chung là cháu Nguyễn Gia Hưng, sinh ngày 27/11/2019. Khi ly hôn Chị H xin được nuôi con. Xét thấy cháu Hưng còn nhỏ (dưới 36 tháng tuổi), hiện Chị H đang trực tiếp nuôi dưỡng, vì vậy, sẽ xử, giao Chị H nuôi cháu Hưng, là đúng quy định tại Điều 81, Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị H không yêu cầu nên tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho đến khi có yêu cầu mới hoặc có quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.

Anh Nguyễn Đức T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

[2.3]. Về tài sản chung, công sức với hai bên gia đình, nợ chung: Chị H xác định không có.

[3]. Về án phí: Chị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[4]. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 51, 56, 81, 82, 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình.

các Điều 28, 35, 40; khoản 4 Điều 147; khoản 2 Điều 227; các Điều 271, 273, 278 và Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Căn cứ khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử 1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị H về việc xin ly hôn anh Nguyễn Đức T.

Chị Lê Thị H được ly hôn anh Nguyễn Đức T.

2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Gia Hưng, sinh ngày 27/11/2019 cho chị Lê Thị H trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi cháu Hưng đủ 18 tuổi hoặc có quyết định khác của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Lê Thị H không yêu cầu nên tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung đối với anh Tcho đến khi có yêu cầu mới hoặc có quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.

Anh Nguyễn Đức T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung, công sức với hai bên gia đình, nợ chung: Chị H xác định không có.

4. Về án phí: Chị Lê Thị H phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào số tiền 300.000 đồng đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0002601 ngày 28 tháng 10 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ, Thành phố Hà Nội.

5. Về quyền kháng cáo: Chị Lê Thị H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Anh Nguyễn Đức T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

149
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 06/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:06/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ba Vì - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về