Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 03/2024/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÒA BÌNH, TỈNH HÒA BÌNH

BẢN ÁN 03/2024/HNGĐ-ST NGÀY 05/01/2024 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 05 tháng 01 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hòa Bình, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 374/2023/TLST-HNGĐ, ngày 05/12/2023 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 44/2023/QĐXXST-HNGĐ ngày 18/12/2023 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Quách Thị Ánh H, sinh năm 1982 ĐKHKTT: tổ 07, phường Phương Lâm, TP Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Mạnh T, sinh năm 1982 ĐKHKTT: tổ 05, P. Đồng Tiến, TP Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình.

Hiện đang chấp hành án tại: Đội 09, K1, Trại giam Yên Hạ - Cục C10 Chị H có mặt. Anh T có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Tại đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên tòa nguyên đơn chị Quách Thị Ánh H trình bày:

Chị H và anh Nguyễn Mạnh T kết hôn năm 2006, có đăng ký kết hôn tại UBND phường Đồng Tiến, thành phố Hòa Bình, trên cơ sở được tìm hiểu tự nguyện. Cuộc sống vợ chồng thời gian đầu hạnh phúc, sau đó phát sinh mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, chị H đã nộp đơn ly hôn gửi Tòa án nhưng được hòa giải nên chị đã rút đơn. Anh T còn vướng phải tệ nạn xã hội là ma túy và năm 2021 anh T đã bị bắt vì tội tàng trữ trái phép chất ma túy, bị xử 06 năm tù. Hiện anh T đang phải chấp hành hình phạt tại Trại giam Yên Hạ - Sơn La. Hôn nhân không có hạnh phúc nên chị H xin được ly hôn.

Về con chung: có 01 con là Nguyễn Toàn Th, sinh ngày 12/9/2007. Khi ly hôn chị H có nguyện vọng xin được nuôi con. Về cấp dưỡng chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung và công nợ chung: Không có.

2. Tại biên bản lấy lời khai ngày 18/12/2023 bị đơn anh Nguyễn Mạnh T trình bày:

Xác nhận thời gian, điều kiện kết hôn như chị H khai là đúng. Quá trình chung sống vợ chồng có mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm, không có tiếng nói chung. Nay chị H xin ly hôn anh T không đồng ý.

Về con chung: có 01 con là Nguyễn Toàn Th, sinh năm 2007. Về tài sản chung và công nợ chung: Không có.

3. Tại Biên bản lấy lời khai ngày 15/12/2020 cháu Nguyễn Toàn Th có ý kiến:

Hiện cháu đang ở với mẹ và được mẹ nuôi dưỡng chăm sóc. Nay bố mẹ ly hôn cháu xin được ở với mẹ.

Tòa án nhân dân thành phố Hòa Bình đã tiến hành kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ theo quy định. Các bên đương sự không thống nhất được với nhau về việc ly hôn, do đó vụ án phải đưa ra xét xử.

Tại phiên tòa: Chị H vẫn kiên quyết xin được ly hôn anh T.

Phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đối với việc giao các văn bản tố tụng đã vi phạm về thời hạn giao, tuy nhiên đã được Tòa án khắc phục. Nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử cho chị Quách Thị Ánh H được ly hôn anh Nguyễn Mạnh T. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Toàn Th, sinh năm 2007 cho chị H nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục. Về tài sản chung và công nợ chung: Không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về pháp luật tố tụng:

Chị Quách Thị Ánh H có đơn khởi kiện xin ly hôn bị đơn là Nguyễn Mạnh T, có nơi cư trú tại: tổ 07, phường Phương Lâm, TP Hòa Bình. Theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết theo loại việc và lãnh thổ của Tòa án nhân dân thành phố Hòa Bình.

[2] Về nội dung vụ án:

2.1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Quách Thị Ánh H và anh Nguyễn Mạnh Toàn có đăng ký kết hôn ngày 08/12/2006 tại UBND phường Đồng Tiến, thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình trên cơ sở được tìm hiểu tự nguyện, đây là hôn nhân hợp pháp theo quy định của Luật Hôn nhân gia đình Việt Nam.

Đánh giá về mâu thuẫn vợ chồng, Hội đồng xét xử nhận thấy: Qua lời khai của các đương sự đã thể hiện cuộc sống vợ chồng chị H và anh T có mâu thuẫn. Nguyên nhân là do hai vợ chồng bất đồng quan điểm, không có tiếng nói chung trong cuộc sống. Anh T có nhân thân xấu, là người có lối sống không lành mạnh, sử dụng ma túy. Năm 2014 anh T đã bị Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình xét xử về tội “Cưỡng đoạt tài sản”; Năm 2019 bị Tòa án nhân dân TP Hòa Bình xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Năm 2021 bị Tòa án nhân dân huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La xử phạt 06 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Hiện anh T đang phải chấp hành án tại Trại giam Yên Hạ – C10 – Bộ Công an.

Điều này đã khẳng định hôn nhân giữa anh T và chị H không có hạnh phúc, mâu thuẫn căng thẳng, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy căn cứ Điều 56 của Luật Hôn nhân gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Quách Thị Ánh H.

2.2. Về con chung: có 01 con là Nguyễn Toàn Th, sinh ngày 12/9/2007. HĐXX xét thấy cháu Th đã có ý kiến xin được ở với mẹ. Chị H có công việc, chỗ ở ổn định và có điều kiện về thời gian để chăm sóc cháu Th. Xét nguyện vọng xin được nuôi con của nguyên đơn là phù hợp nên Tòa cần chấp nhận. Về việc cấp dưỡng nuôi con chị H không yêu cầu nên Tòa không xem xét. Anh T có quyền và nghĩa vụ đi lại thăm nom con chung, không ai được cản trở.

2.3. Về tài sản chung và công nợ chung: Đương sự khai không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

2.4. Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39;

Điều 147; Điều 207; Điều 228; Điều 271; Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56, 57, 81, 82, 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Quách Thị Ánh H được ly hôn anh Nguyễn Mạnh T.

2. Về con chung: có 01 con là Nguyễn Toàn Th, sinh ngày 12/9/2007. Giao cháu Nguyễn Toàn Th cho chị Quách Thị Ánh H nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Về cấp dưỡng nuôi con, chị H không yêu cầu nên Tòa không xem xét.

Anh T có quyền và nghĩa vụ đi lại thăm nom con chung, không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung và công nợ chung: Không có.

4. Về án phí: Chị Quách Thị Ánh H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, nay được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục THADS thành phố Hòa Bình, theo biên lai thu số: 0000153, ngày 05/12/2023. Xác nhận chị H đã nộp đủ tiền án phí.

5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo với thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

19
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 03/2024/HNGĐ-ST

Số hiệu:03/2024/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hòa Bình - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:05/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về