TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỐNG NHẤT, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 02/2020/HNGĐ-ST NGÀY 14/06/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN
Ngày 14 tháng 01 năm 2021 tại Hội trường A – Tòa án nhân dân huyện T, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 314/2020/TLST - HNGĐ ngày 29 tháng 7 năm 2020 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2020/QĐXX-ST ngày 10 tháng 5 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 03/2020/QĐST – HNGĐ ngày 28/5/2021, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Đỗ Thị Kim T – sinh năm 1987; HKTT: F6/043, ấp N, xã Q, huyện T, tỉnh Đồng Nai; nơi cư trú: số nhà 27/1B, ấp T, xã G, huyện T, tỉnh Đồng Nai.
2. Bị đơn: Anh Đinh Viết H, sinh năm: 1986; địa chỉ: F6/043, ấp N, xã Q, huyện T, tỉnh Đồng Nai.
(Chị T, anh H vắng mặt tại phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 13 tháng 7 năm 2020 và trong quá trình giải quyết, xét xử, nguyên đơn chị Đỗ Thị Kim T trình bày:
Về hôn nhân: Chị và anh H tìm hiểu, yêu thương nhau và tự nguyện tiến tới kết hôn, được Ủy ban nhân dân xã Q, huyện T cấp giấy chứng nhận kết hôn theo giấy chứng nhận kết hôn số 108, ngày 05/8/2009. Trong quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc, đầm ấm đến khoảng 03 năm nay thì thường xảy ra mâu thuẫn, bất đồng. Nguyên nhân xảy ra mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm, tính tình không hợp nhau, anh H không quan tâm đến gia đình mà ham chơi cờ bạc, đá gà gây ảnh hưởng đến kinh tế gia đình. Rất nhiều lần chị T can ngăn nhưng anh H không thay đổi. Tháng 6 năm 2020 chị T đã nộp đơn ly hôn tại Tòa án nhưng vì thương con nên chị rút đơn để vợ chồng hàn gắn tình cảm quay về đoàn tụ nhưng anh H vẫn không thay đổi tính tình.
Khoảng 01 năm nay vợ chồng không sống chung nhà với nhau, không quan tâm, yêu thương nhau, không thực hiện quyền, nghĩa vụ chung của vợ chồng. Thời gian vợ chồng ly thân, bản thân chị và anh H không ai có biện pháp hàn gắn đoàn tụ. Ngoài ra mối quan hệ giữa hai bên gia đình chị và gia đình anh H cũng không hòa thuận, càng làm cho mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng hơn. Nay nhận thấy không còn tình cảm vợ chồng với anh H, mâu thuẫn đã trầm trọng, không còn khả năng hàn gắn nên chị yêu cầu được ly hôn với anh Đinh Viết H.
Về con chung: Chị và anh H có 01 con chung là cháu Đinh Ánh Ngọc Thiên A, sinh ngày: 29/7/2015. Kể từ khi chị T không sống chung với anh H thì cháu A nuôi dưỡng con chung.
Về cấp dưỡng nuôi con: Hiện nay nghề nghiệp của chị T là buôn bán trái cây, mỗi tháng thu nhập trung bình khoảng 10.000.000đ (mười triệu đồng). Do đó tạm thời chị không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về nghĩa vụ tài sản: Chị và anh H không có nợ chung, nợ riêng.
* Bị đơn anh Đinh Viết H vắng mặt trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án, không cung cấp văn bản trình bày ý kiến và tài liệu, chứng cứ về yêu cầu khởi kiện của chị Đỗ Thị Kim T.
* Theo biên bản xác minh ngày 06 tháng 10 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Thống Nhất, xác minh về tình trạng hôn nhân, nguyên nhân phát sinh tranh chấp giữa chị T và anh H, được thực hiện tại nơi cư trú của các đương sự, thể hiện: Chị T và anh H kết hôn vào năm 2009 và sinh sống tại địa phương, tuy nhiên cuộc sống chung vợ chồng chị T và anh H thường xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do anh H không lo làm ăn, lo lắng cho gia đình mà ham chơi đá gà dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng. Hiện nay chị T và anh H không còn sống chung nhà với nhau. Ngoài ra địa phương không nắm được nguyên nhân mâu thuẫn gì khác.
* Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát:
Về việc chấp hành pháp luật tố tụng: Nguyên đơn, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng quy định pháp luật tố tụng.
Về đường lối giải quyết vụ án: Đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị T; giao con chung cho chị T tiếp tục nuôi dưỡng, tạm thời anh H không phải cấp dưỡng nuôi con chung; Về chia tài sản không đặt ra xem xét; Chị T phải chịu án phí theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tố tụng:
[1.1] Nguyên đơn chị Đỗ Thị Kim T khởi kiện tranh chấp ly hôn, bị đơn anh Đinh Viết H có nơi cư trú tại huyện T, tỉnh Đồng Nai nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Đồng Nai theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[1.2] Anh H đã được triệu tập xét xử hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa, không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan, Chị T vắng mặt tại phiên tòa và có đơn xin xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt chị T, anh H.
[2] Về nội dung:
[2.1] Xét chị Đỗ Thị Kim T và anh Đinh Viết H tự nguyện kết hôn có đăng ký và được UBND xã Q, huyện T, tỉnh Đồng Nai cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 05/8/2009 nên quan hệ hôn nhân giữa chị T và anh H là hợp pháp.
[2.2] Trong suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ án, anh H không đến Tòa án làm việc cũng như không cung cấp văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của chị T. Tuy nhiên căn cứ vào kết quả xác minh tại chính quyền địa phương, lời khai của chị T đủ cơ sở xác định trong quá trình chung sống, chị T và anh H có xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn chủ yếu do bất đồng trong đời sống sinh hoạt vợ chồng, anh H không lo làm ăn, lo lắng cho gia đình mà ham chơi dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng. Hiện nay chị T và anh H không còn sống chung. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành thông báo, triệu tập anh H đến Tòa để H giải đoàn tụ theo quy định nhưng anh H không đến Tòa làm việc, qua đó thể hiện việc anh H không quyết tâm bảo vệ quan hệ hôn nhân giữa anh và chị T. Từ đó cho thấy hôn nhân giữa chị T và anh H đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị T, cho ly hôn giữa chị T và anh H.
[2.3] Về con chung: Chị T và anh H có một con chung là cháu Đinh Ánh Ngọc Thiên A, sinh ngày: 29/7/2015. Con chung hiện đang sống chung cùng với chị T. Khi ly hôn chị T yêu cầu được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung và tạm thời chị T không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con. Hội đồng xét xử xét thấy, cháu A còn nhỏ, đã sinh sống ổn định với chị T. Do đó việc giao cháu A cho chị T tiếp tục nuôi dưỡng là cần thiết, tạo điều kiện sống, phát triển ổn định cho trẻ nên cần chấp nhận yêu cầu của chị T.
[2.4] Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con: chị T là người trực tiếp nuôi con và không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[2.5] Về tài sản: Các đương sự không yêu cầu giải quyết nên HĐXX không xem xét.
[2.6] Về nghĩa vụ tài sản: Không có.
[3] Về án phí: Chị T là nguyên đơn trong vụ án này nên phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
[4] Các bên đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
[5] Xét đề nghị của Viện kiểm sát về đường lối giải quyết vụ án là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228, khoản 2 Điều 229, Điều 235 và Điều 266 của Bộ luật tố tụng dân sự;
Áp dụng các Điều 8, khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 58, khoản 1, 2 Điều 81; Điều 82, 83, 84 và khoản 1 Điều 131 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14.
Tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đỗ Thị Kim T, về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” với anh Đinh Viết H.
1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Đỗ Thị Kim T và anh Đinh Viết H.
2. Về nuôi con chung:
2.1. Giao con chung cháu Đinh Ánh Ngọc Thiên A, sinh ngày:
29/7/2015 cho chị T tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Tạm thời anh H không phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.
2.2. Anh Đinh Viết H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Vì quyền lợi của con chung, khi cần thiết chị Đỗ Thị Kim T và anh Đinh Viết H được quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con, yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.
3. Về chia tài sản: Không đặt ra giải quyết.
4. Về nghĩa vụ tài sản: Không có.
5. Về nghĩa vụ chịu án phí: Chị Đỗ Thị Kim T phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0006162 ngày 24/7/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh Đồng Nai. Chị T đã nộp đủ án phí.
6. Về quyền kháng cáo: Chị Đỗ Thị Kim T, anh Đinh Viết H được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết theo quy định
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 02/2020/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 02/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thống Nhất - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 14/06/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về