Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn (nguyên đơn không cung cấp được địa chỉ ở nước ngoài của bị đơn) số 118/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 118/2022/HNGĐ-ST NGÀY 08/07/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 08 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 105/2022/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 4 năm 2022, về việc: "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 149/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 02 tháng 6 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 95/2022/QĐST-HNGĐ ngày 22 tháng 6 năm 2022, giữa:

1. Nguyên đơn: Chị Phạm Thị Trung A, sinh năm 1993. ĐKHKTT: Thôn Phú V, xã Phú Đ, huyện N, tỉnh Hải Dương.

Nơi cư trú hiện nay: Thôn Tiến Đ, phường A, thành phố H, tỉnh Hải Dương.

Vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn L, sinh năm 1988.

Địa chỉ trước khi xuất cảnh: Thôn Phú V, xã Phú Đ, huyện N,tỉnh Hải Dương. Hiện đang cư trú tại: Đài Loan.

Vắng mặt lần thứ 2.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Đồng Thị Th, sinh năm 1957. Địa chỉ: Xóm Phú X, thôn Phú V, xã Phú Đ, huyện N, tỉnh Hải Dương. Vắng mặt và có quan điểm đề nghị giải quyết vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Phạm Thị Trung A trình bày: Chị và anh Nguyễn Văn L được tự do tìm hiểu, tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Phú Đ, huyện N, tỉnh Hải Dương vào ngày 22/02/2012. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh L ham chơi, không chịu khó làm ăn, vợ chồng bất đồng trong việc làm ăn kinh tế và không có tiếng nói chung, nhiều lần chị đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở nhưng anh L xin lỗi nên vì các con chị đã quay về. Tuy nhiên sau đó anh L vẫn tiếp tục chơi bời, không thay đổi. Vợ chồng sống ly thân từ năm 2020 đến nay, không ai quan tâm đến ai. Năm 2021 anh L đi lao động tại Đài Loan nhưng không nói cho chị biết và cũng không liên lạc với chị. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Nguyễn Văn L.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Nguyễn Thị Quỳnh C, sinh ngày 16/6/2012 và Nguyễn Minh T, sinh ngày 01/12/2017, hiện cháu Chi đang ở với chị, cháu T đang ở với ông bà nội. Ly hôn chị đề nghị được nuôi dưỡng con Nguyễn Thị Quỳnh C và nhất trí giao con Nguyễn Minh T cho anh L chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi các con thành niên, không ai phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cho nhau. Trong thời gian anh L không có mặt tại Việt Nam chị nhất trí giao cháu Minh T cho bà Đồng Thị Th chăm sóc.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Do chị Anh không cung cấp được địa chỉ của anh L nên Tòa án đã tiến hành xác minh tại gia đình anh L. Bà Đồng Thị Th - mẹ đẻ anh L trình bày: Bà không biết địa chỉ cụ thể của anh L ở nước ngoài nên không thể cung cấp cho Tòa án. Tuy nhiên anh L vẫn thường xuyên liên lạc với gia đình qua điện thoại. Bà đồng ý nhận các văn bản tố tụng của Tòa án và có trách nhiệm thông báo cho anh L biết. Thông qua gia đình anh L có quan điểm: anh chị đã liên lạc và thống nhất việc ly hôn, nay chị A có đơn xin ly hôn, anh nhất trí. Anh xác định vợ chồng có hai con chung như chị A trình bày là đúng. Anh nhất trí để chị A nuôi dưỡng con chung Nguyễn Thị Quỳnh C và anh có nguyện vọng nuôi dưỡng con chung Nguyễn Minh T cho đến khi các con thành niên, các bên không ai phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Trong thời gian anh không có mặt tại Việt Nam, anh ủy quyền cho bà Th thay anh chăm sóc con Nguyễn Minh T. Về tài sản chung, nợ chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Cháu Nguyễn Thị Quỳnh C có nguyện vọng được ở với chị A Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương phát biểu quan điểm:

Về việc tuân theo pháp luật: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và nguyên đơn đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về đường lối quyết vụ án: Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ cho thấy mâu thuẫn giữa chị A và anh L đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện, xử cho chị Phạm Thị Trung A ly hôn anh Nguyễn Văn L. Về con chung: Giao con chung Nguyễn Thị Quỳnh C cho chị A nuôi dưỡng, giao con chung Nguyễn Minh T cho anh L nuôi dưỡng, không ai phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cho nhau. Tạm giao con chung Nguyễn Minh T cho bà Th chăm sóc cho đến khi anh L về nước. Chị A phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và xem xét ý kiến của các đương sự, quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Nguyên đơn chị Phạm Thị Trung A sinh sống tại Việt Nam, bị đơn anh Nguyễn Văn L có nơi cư trú cuối cùng trước khi xuất cảnh tại thôn Phú V, xã Phú Đ, huyện N, tỉnh Hải Dương, hiện anh L đang lao động tại Đài Loan. Do vậy, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương.

Trong quá trình giải quyết vụ án, chị A không cung cấp được địa chỉ cụ thể của anh L tại Đài Loan. Theo hướng dẫn tại công văn số 253/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân Tối cao, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương đã hai lần yêu cầu gia đình anh L cung cấp địa chỉ, nhưng gia đình không cung cấp được. Do vậy, áp dụng công văn số 253/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân Tối cao, Tòa án tiến hành giao các văn bản tố tụng cho bà Th mẹ đẻ anh L, đồng thời niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình giải quyết vụ án chị A có đơn xin xét xử vắng mặt. Bà Th cũng có quan điểm đề nghị được xét xử vắng mặt. Anh L vắng mặt lần thứ hai không có lý do. Do vậy, căn cứ khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị Anh, anh L và bà Th [2]. Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị Trung A và anh Nguyễn Văn L kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Phú Đ, huyện N, tỉnh Hải Dương vào ngày 22/02/2012, do vậy hôn nhân của anh, chị là hợp pháp. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng trong việc làm ăn kinh tế và không có tiếng nói chung. Thực tế anh chị đã sống ly thân từ năm 2020 cho đến nay, không ai quan tâm đến ai. Nay chị A xác định tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh L. Thông qua gia đình anh L cũng xác định vợ chồng không còn tình cảm và nhất trí ly hôn. Hội đồng xét xử thấy, mâu thuẫn giữa chị A và anh L đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy, có căn chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị A.

[2.2] Về quan hệ con chung: Vợ chồng có hai chung là Nguyễn Thị Quỳnh C, sinh ngày 16/6/2012 và Nguyễn Minh T, sinh ngày 01/12/2017, hiện cháu C đang ở với chị, cháu T đang ở với bà nội. Chị A, anh L thống nhất: chị A nuôi dưỡng con chung Nguyễn Thị Quỳnh C, anh L nuôi dưỡng con chung Nguyễn Minh T cho đến khi các con thành niên, không ai phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cho nhau. Con chung Nguyễn Thị Quỳnh C có nguyện vọng được ở với chị A. Anh L ủy quyền cho bà Th chăm sóc con chung Nguyễn Minh T cho đến khi anh về nước. Hội đồng xét xử thấy, thỏa thuận của anh chị phù hợp với thực tế và phù hợp với quy định của pháp luật, do vậy có căn cứ chấp nhận. Tạm giao con Nguyễn Minh T cho bà Đồng Thị Th nuôi dưỡng trong thời gian anh L không có mặt tại Việt Nam.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Do các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

[3]. Về án phí: Chị Phạm Thị Trung A phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì những lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 51; 56; 81; 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phạm Thị Trung A 1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Phạm Thị Trung A ly hôn anh Nguyễn Văn L.

2. Về quan hệ con chung: Giao cho chị Phạm Thị Trung A được chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung là Nguyễn Thị Quỳnh C, sinh ngày 16/6/2012 cho đến khi con tròn 18 tuổi. Giao cho anh Nguyễn Văn L được chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung là Nguyễn Minh T, sinh ngày 01/12/2017 cho đến khi con tròn 18 tuổi. Chị A và anh L không ai phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cho nhau. Tạm giao con chung Nguyễn Minh T cho bà Đồng Thị Th nuôi dưỡng trong thời gian anh L không có mặt tại Việt Nam.

Chị Phạm Thị Trung A và anh Nguyễn Văn L được quyền thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Phạm Thị Trung A phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được đối trừ 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm chị A đã nộp, theo biên lai thu số AA/2021/0000064 ngày 25 tháng 4 năm 2022 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương. Chị A đã nộp đủ án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Chị Phạm Thị Trung A và bà Đồng Thị Th được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Anh Nguyễn Văn L được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

220
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn (nguyên đơn không cung cấp được địa chỉ ở nước ngoài của bị đơn) số 118/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:118/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:08/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về