Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con giữa Anh Đ và chị H số 374/2021/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 374/2021/HNGĐ-ST NGÀY 11/08/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON GIỮA ANH Đ VÀ CHỊ H

Ngày 11 tháng 8 năm 2021, tại Trụ sở Toà án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý 294/2021/TLST- HNGĐ ngày 01 tháng 7 năm 2021 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 53/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 30 tháng 7 năm 2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Đặng Tất Đ, sinh năm 1984; Nơi cư trú: số H đường P, phường Tr, thành phố N, tỉnh Nam Định.

Bị đơn: Chị Trần Thị H, sinh năm 1984; Đăng ký hộ khẩu thường trú: số H đường P, phường Tr, thành phố N, tỉnh Nam Định; Nơi cư trú: Khu tập thể giáo viên trường xây dựng xã N, thành phố N, tỉnh Nam Định.

(Anh Đ và chị H vắng mặt tại phiên tòa có đơn đề nghị xét xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

1.Tại đơn khởi kiện tranh chấp về hôn nhân và gia đình đề ngày 20-6-2021, trong quá trình tham gia tố tụng, nguyên đơn là anh Đặng Tất Đ trình bày:

Về quan hôn nhân: anh và chị Trần Thị H kết hôn trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu và có đăng ký kết hôn tại UBND phường Trần Hưng Đạo, thành phố Nam Định ngày 10-12-2007. Sau khi kết hôn anh và chị H chung sống hòa thuận hạnh phúc đến khoảng năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm, lối sống cũng như các mối quan hệ gia đình nên thường xảy ra xô xát, cãi vã. Do mâu thuẫn căng thẳng nên vợ chồng sống ly thân từ cuối năm 2019 cho đến nay. Trong thời gian ly thân, vợ chồng không quan tâm và chăm sóc đến nhau. Nay Anh Đ xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn không thể khắc phục nên Anh Đ có nguyện vọng xin được ly hôn với chị H.

Về con chung: Anh Đ trình bày vợ chồng có hai con chung là Đặng Trần Ly L, giới tính Nữ, sinh ngày 11-02-2008 và Đặng Anh T, giới tính Nam, sinh ngày 16-10-2011. Về việc nuôi con: Anh Đ nhất trí giao hai con chung là Đặng Trần Ly L và Đặng Anh T cho chị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Việc cấp dưỡng nuôi con vợ chồng tự thỏa thuận, không đề nghị Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung và vay nợ chung của vợ chồng: Anh Đ xác định vợ chồng tự thỏa thuận và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngoài ra, do công việc rất bận nên Anh Đ đã có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt.

2. Tại bản tự khai đề ngày 07-7-2021, trong quá trình tham gia tố tụng bị đơn là chị Trần Thị H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị H thừa nhận về thời gian, điều kiện, hoàn cảnh kết hôn như anh Đặng Tất Đ trình bày là đúng. Về mâu thuẫn vợ chồng chị H trình bày: Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hòa thuận đến tháng 01 năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng luôn bất đồng quan điểm, Anh Đ không tu chí làm ăn, không quan tâm chăm sóc chị và các con nên từ đó vợ chồng thường xuyên xảy ra xung đột, cãi vã. Nay chị H xác định mâu thuẫn vợ chồng không có khả năng hàn gắn nên cũng đồng ý ly hôn với Anh Đ.

Về con chung: Chị H xác nhận vợ chồng anh chị có hai con chung Đặng Trần Ly L, giới tính Nữ, sinh ngày 11-02-2008 và Đặng Anh T, giới tính Nam, sinh ngày 16-10-2011. Về việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con: chị H nhất trí đề nghị của Anh Đ sau khi ly hôn chị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng hai con chung Đặng Trần Ly L và Đặng Anh T. Việc cấp dưỡng nuôi con vợ chồng tự thỏa thuận, không đề nghị Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung, vay nợ chung của vợ chồng: Chị H xác định vợ chồng tự thỏa thuận và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngoài ra, do công việc rất bận nên chị H đã có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt.

3. Tại biên bản thu thập tài liệu chứng cứ ngày 09-7-2021 tại Ủy ban nhân dân phường Trần Hưng Đạo, thành phố Nam Định xác nhận quá trình chung sống vợ chồng Anh Đ, chị H thường xảy ra mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm. Về con chung: Vợ chồng Anh Đ và chị H có hai con chung là Đặng Trần Ly L, giới tính Nữ, sinh ngày 11-02-2008 và Đặng Anh T, giới tính Nam, sinh ngày 16- 10-2011.

4. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định căn cứ Điều 21, Điều 262 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 nhận xét đánh giá: Về quá trình tiến hành tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã tuân thủ đúng các qui định của pháp luật. Về việc chấp hành pháp luật của các đương sự đã chấp hành đúng quy định của pháp luật. Về việc giải quyết vụ án: Quan hệ hôn nhân giữa Anh Đ và chị H đã lâm vào tình trạng trầm trọng, mâu thuẫn kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được đề nghị Hội đồng xét xử xử căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 xử cho ly hôn giữa Anh Đ và chị H. Về việc con chung: Anh Đ và chị H thống nhất chị H trực tiếp nuôi con dưỡng hai con chung là cháu Linh và cháu Tuấn. Về cấp dưỡng nuôi con vợ chồng tự thỏa thuận. Xét việc tự thỏa thuận của các đương sự về việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với qui định của pháp luật nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận. Về tài sản chung và công nợ: Anh Đ và chị H không đề nghị giải quyết nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Do nguyên đơn là anh Đặng Tất Đ và bị đơn là chị Trần Thị H đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vụ án vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Anh Đặng Tất Đ và chị Trần Thị H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Trần Hưng Đạo thành phố Nam Định ngày 10-12-2007 nên hôn nhân giữa Anh Đ và chị H là hôn nhân hợp pháp.

[3] Về mâu thuẫn vợ chồng: Sau khi kết hôn Anh Đ và chị H sống hòa thuận hạnh phúc đến khoảng tháng 1 năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm, lối sống. Ngoài ra, chị H còn trình bày mâu thuẫn vợ chồng còn do Anh Đ không tu chí làm ăn không quan tâm chăm sóc chị H và hai con. Do mâu thuẫn vợ chồng căng thẳng nên anh chị đã sống ly thân từ tháng 1 năm 2019 cho đến nay và không còn quan tâm chăm sóc đến nhau. Anh Đ xin ly hôn, chị H cũng đồng ý và đều đề nghị không tiến hành hòa giải mâu thuẫn vợ chồng, đề nghị vắng mặt tại phiên tòa điều này chứng tỏ cuộc sống vợ chồng đã thực sự trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó Hội đồng xét xử xử cho ly hôn giữa anh Đặng Tất Đ và chị Trần Thị H theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[4] Về việc nuôi con: Anh Đ và chị H có quan điểm thống nhất chị H là người trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng hai con chung là Đặng Trần Ly L, giới tính Nữ, sinh ngày 11-02-2008 và Đặng Anh T, giới tính Nam, sinh ngày 16-10- 2011. Xét việc các đương sự tự thỏa thuận về việc nuôi con là hoàn toàn tự nguyện, các con Đặng Trần Ly L và Đặng Anh T hiện tại đang ở cùng chị H và cũng có nguyện vọng được ở với mẹ nên theo quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình Hội đồng xét xử có căn cứ giao hai con Đặng Trần Ly L và Đặng Anh T cho chị Trần Thị H trực tiếp nuôi dưỡng.

[5] Về cấp dưỡng nuôi con: Xét việc Anh Đ và chị H tự thỏa thuận về việc cấp dưỡng nuôi con và không yêu cầu Tòa án giải quyết là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Về tài sản chung và vay nợ chung của vợ chồng: Anh Đ và chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[7] Về án phí dân sự sơ thẩm: anh Đặng Tất Đ là nguyên đơn trong vụ án nên phải chịu toàn bộ án phí.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Căn cứ vào khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Căn cứ vào khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Xử cho ly hôn giữa anh Đặng Tất Đ và chị Trần Thị H.

2. Về nuôi con chung: Giao hai con Đặng Trần Ly L, giới tính Nữ, sinh ngày 11-02-2008 và con Đặng Anh T, giới tính Nam, sinh ngày 16-10-2011 cho chị Trần Thị H trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng nuôi con: Vợ chồng tự thỏa thuận và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Người không trực tiếp nuôi con chung có quyền đi lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung. Không ai được hạn chế, cản trở các quyền này.

Người không trực tiếp nuôi con chung có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi con, không được lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc giáo dục, nuôi dưỡng con của người trực tiếp nuôi con chung 3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Anh Đặng Tất Đ phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng). Khấu trừ khoản tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) anh Đặng Tất Đ đã nộp tại biên lai số 0002921 ngày 01-7-2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Nam Định.

4. Về quyền kháng cáo: Anh Đặng Tất Đ và chị Trần Thị H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

140
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con giữa Anh Đ và chị H số 374/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:374/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về