Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung số 75/2023/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYN ĐẠI TỪ, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 75/2023/HNGĐ-ST NGÀY 29/12/2023 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG

Ngày 29/12/2023, tại Tòa án nhân dân huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân & gia đình thụ lý số: 332/2023/HN&GĐ - ST ngày 17/10/2023, về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con chung”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 73/2023/QĐXXST-HN&GĐ, ngày 28/11/2023, giữa:

1. Ngun đơn: Chị Hoàng Thị M, sinh năm 1994;

ĐKHKTT: Xóm N, xã P, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên.

2. Bị đơn: Anh Vũ Việt C, sinh năm 1993;

ĐKHKTT: Xóm N, xã P, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên.

(Có mặt chị M, vng mặt anh C tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản hòa giải, tại phiên tòa nguyên đơn chị Hoàng Thị M trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh C kết hôn năm 2015, đăng ký kết hôn tại UBND xã P, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên, việc kết hôn hoàn toàn tự nguyện. Sau khi kết hôn, cuộc sống hạnh phúc đến năm 2021 phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân chủ yếu mâu thuẫn cả về kinh tế và tình cảm nên cả hai không tìm được tiếng nói chung, kèm theo đó anh C chơi bời cờ bạc, nghiện ma túy, chị khuyên bảo nhiều lần nhưng không có kết quả, anh C cũng đã thừa nhận chơi bời cờ bạc qua mạng công khai trước mặt chị. Chị cũng đã nhờ hai bên gia đình can thiệp để anh C từ bỏ cờ bạc tu chí làm ăn nhưng anh C chỉ hứa mà không thực hiện. Từ năm 2022 đến nay, chị và anh C ly thân, chị đưa cả hai con về nhà ngoại sinh sống nhưng anh C cũng không có ý kiến gì. Nay chị xác định tình cảm không còn, đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn đơn phương để chấm dứt tình trạng hôn nhân không hạnh phúc như hiện nay.

Về con chung: Quá trình chung sống, chị và anh C có 02 con chung là cháu Vũ Hoàng Mộc C1, sinh ngày 24/9/2015; Vũ Hoàng Mộc M1, sinh ngày 25/8/2017. Khi ly hôn, chị đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung, không yêu cầu anh C có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi các con, bởi chị làm công nhân khu công nghiệp S tại Thái Nguyên với mức thu nhập trung bình 8.0000.000đ/tháng đảm bảo nuôi các con trưởng thành.

Về tài sản chung: Không có, không đặt ra việc giải quyết.

Về nợ chung, khoản cho vay chung: Không có, không đặt ra việc giải quyết.

Bị đơn anh Vũ Việt C đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng không chấp hành giấy báo và các văn bản tố tụng. Do vậy, không có quan điểm trình bày của anh C.

Tại phiên tòa, đại diện VKSND huyện Đại Từ phát biểu quan điểm:

Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng, trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, của Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án được thực hiện đúng trình tự, thủ tục tố tụng quy định tại các Điều 26, 35, 39, 68, 96, 97 và Điều 195 của Bộ luật tố tụng dân sự; Bị đơn chưa thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật. Đại diện VKS không có ý kiến đề nghị, kiến nghị gì.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 51, Điều 56, Điều 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình; Điều 266 Bộ luật tố tụng dân sự, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016 ngày 30/12/2016, ra bản án với các nội dung sau:

- Về quan hệ hôn nhân: Cho chị M được ly hôn anh C.

- Về con chung: Đề nghị giao cả hai con chung là cháu Vũ Hoàng Mộc C1, sinh ngày 24/9/2015; Vũ Hoàng Mộc M1, sinh ngày 25/8/2017 cho chị M trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục cho đến khi con chung trưởng thành (đủ 18 tuổi).

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị M không yêu cầu anh C có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung nên tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con đối với anh C cho đến khi có yêu cầu.

- Về tài sản chung: Không có nên không đặt ra việc giải quyết.

- Về nợ chung, các khoản cho vay chung: Không có, không đặt ra việc giải quyết.

- Án phí: Chị M phải chịu toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định.

- Quyền kháng cáo: Đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đại Từ phát biểu quan điểm chấp hành pháp luật tố tụng và quan điểm về việc giải quyết toàn bộ vụ án. Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Đây là vụ án Hôn nhân và gia đình về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”. Bị đơn anh Vũ Việt C có hộ khẩu thường trú tại xóm N, xã P, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên. Căn cứ Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật tố tụng Dân sự xác định thẩm quyền giải quyết, xét xử của Tòa án nhân dân huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên.

[2]. Về tố tụng:

[2.1] . Về sự vắng mặt của người tham gia tố tụng: Bị đơn anh C vắng mặt đã được thông báo hợp lệ qua người thân là mẹ đẻ anh C là bà Hoàng Thị H nhận và cam kết giao anh C trực tiếp giấy báo, các văn bản tố tụng của Tòa án theo quy định tại khoản 5 Điều 177 và Điều 178 của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Tại phiên tòa, anh C vẫn vắng mặt không có lý do. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt bị đơn trong vụ án.

[2.2]. Về sự tham gia của đại diện Viện kiểm sát tại phiên toà: Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành các biện pháp thu thập chứng cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 97 Bộ luật tố tụng dân sự nên Viện kiểm sát tham gia phiên toà là đúng quy định tại khoản 2 Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[3.] Về nội dung vụ án:

[3.1] Về quan hệ hôn nhân: Xét yêu cầu xin ly hôn của chị M đối với anh C, Hội đồng xét xử thấy rằng: Chị Hoàng Thị M và anh Vũ Việt C kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã P, huyện Đ và được cấp Giấy chứng nhận kết hôn năm 2015, nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân chủ yếu anh C chơi bời nghiện ma túy và không tu chí cho gia đình, chị M cùng gia đình khuyên bảo nhưng không có kết quả, từ hơn một năm nay vợ chồng ly thân không ai quan tâm đến cuộc sống của ai.

Trong quá trình giải quyết vụ án, anh C không hợp tác và không có lời khai thể hiện quan điểm về yêu cầu giải quyết ly hôn của chị M, lời trình bày của chị M về mâu thuẫn vợ chồng do anh C nghiện ma túy phù hợp với kết quả thu thập chứng cứ do Tòa án tiến hành, cụ thể: bà Hoàng Thị H - là mẹ đẻ của anh C cung cấp thông tin: Bà xây dựng gia đình cho hai con năm 2015, được cưới hỏi theo phong tục tập quán của địa phương. Sau khi kết hôn chị M về gia đình bà làm dâu một thời gian thì gia đình bà cho vợ chồng chị M và anh C ra ở riêng, nhà và đất đều do bố mẹ làm cho các con. Vợ chồng anh, chị hạnh phúc đến năm 2021 phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân chủ yếu do anh C chơi bời cờ bạc và nghiện ma túy (tài xửu), gia đình bà có khuyên bảo nhưng các con có thực hiện hay không bà không nắm được. Từ tháng 01/2023 chị M xin phép gia đình bà đưa các cháu về bên ngoại tại huyện C, tỉnh Nghệ An chơi một thời gian nên bà đã đồng ý, còn anh C đi làm ăn các nơi thỉnh thoảng mới về gia đình, thời gian gần đây anh C không dùng điện thoại nên bà không liên lạc được. Việc chị M có đơn ly hôn đã được bà thông tin trực tiếp nhưng anh C không thể hiện quan điểm đồng ý hay không đồng ý ly hôn và cũng không đến Tòa án tham gia hòa giải đoàn tụ do Tòa án tiến hành. Anh C cũng thờ ơ với việc chị M bỏ đi hay quay lại. Nay chị M có đơn ly hôn bà mong muốn các con đoàn tụ, nhưng hôn nhân của các con do các con tự quyết định bà không tham gia mà đề nghị Tòa án căn cứ quy định của pháp luật để giải quyết.

Thấy rằng theo Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình quy định: “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình; có nghĩa vụ chung sống với nhau... ”. Thực tế cuộc sống của chị M, anh C đã không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của vợ chồng theo quy định, làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Mặt khác, từ khi Tòa án thụ lý vụ án, đến các phiên hòa giải, xét xử vụ kiện anh C đã nhận được các văn bản tố tụng của Tòa án, nhưng không đến Tòa án để thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Điều này chứng tỏ anh C không muốn níu kéo cuộc hôn nhân.

Theo khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình: “Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hoà giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không th kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được”. Do vậy, cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị M, cho chị M được ly hôn với anh C là phù hợp theo quy định tại Điều 19, Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[3.2]. Về con chung: Với quá trình chung sống, chị M và anh C có 02 con chung: cháu Vũ Hoàng Mộc C1, sinh ngày 24/9/2015; Vũ Hoàng Mộc M1, sinh ngày 25/8/2017. Nay ly hôn, chị M đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung, không yêu cầu anh C có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung. Hội đồng xét xử thấy rằng: Nguyện vọng được nuôi cả hai con chung của chị M là chính đáng, bởi từ khi gửi đơn ly hôn đến khi xét xử vụ kiện, anh C đã không hợp tác, không thể hiện quan điểm về ly hôn và nuôi con, mặt khác hai con của chị M với anh C đều là con gái rất cần sự chăm sóc và giáo dục giới tính từ người mẹ, hiện các con đang ở ổn định cùng mẹ, tại bản tự khai nguyện vọng của con chung cháu Vũ Hoàng Mộc C1 cũng mong muốn được tiếp tục ở với mẹ là chị M, chị M có công việc và thu nhập ổn định. Theo cung cấp sao kê tài khoản lương chị M thể hiện thu nhập bình quân từ 8.000.000đ đến 10.000.000đ/tháng, đảm bảo điều kiện để nuôi các con. Anh C không có tài liệu nào chứng minh thu nhập cũng không thể hiện quan điểm đề nghị được nuôi con chung hay không. Do vậy, cần chấp nhận yêu cầu được quyền nuôi dưỡng con chung của chị M, giao cho chị M trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung cho đến khi trưởng thành (đủ 18 tuổi), tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung đối với anh C do chị M không yêu cầu. Việc thăm và chăm sóc con chung được thực hiện theo quy định của pháp luật.

[3.3]. Về tài sản chung: Không có không đặt ra việc giải quyết.

[3.4]. Về khoản nợ chung, các khoản cho vay chung: Không có nên không đặt ra việc giải quyết.

[4]. Về án phí: Chị M phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm nộp ngân sách Nhà nước.

[5]. Quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[6]. Ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đại Từ tại phiên toà là phù hợp nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 5 Điều 177, Điều 178, Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 19, 51, 56, 81, 82, 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn, tranh chấp về nuôi con chung của chị Hoàng Thị M với anh Vũ Việt C.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Hoàng Thị M được ly hôn với anh Vũ Việt C.

2. Về con chung: Giao cả hai con chung cháu Vũ Hoàng Mộc C1, sinh ngày 24/9/2015; Vũ Hoàng Mộc M1, sinh ngày 25/8/2017, cho chị Hoàng Thị M được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục các con chung cho đến khi trưởng thành (đủ 18 tuổi) và có khả năng lao động hoặc cho đến khi có sự thay đổi người nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con: Chị M không yêu cầu anh C có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung nên tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung đối với anh C cho đến khi chị M có yêu cầu hoặc có sự thay đổi khác về cấp dưỡng theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn, bên không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm và chăm sóc con chung mà không ai được cản trở họ thực hiện quyền này. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom đ cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Vì lợi ích của con chung, khi cần thiết các bên có thể yêu cầu thay đi việc nuôi con và mức cấp dưỡng theo quy định của pháp luật.

3. Về tài sản chung: Không có nên không đặt ra việc giải quyết.

4. Về nợ chung, cho vay chung: Không có, không đặt ra việc giải quyết.

5. Về án phí: Chị Hoàng Thị M phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn, chị M được đối trừ vào khoản tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Đại Từ, theo biên lai số 0005149 ngày 17/10/2023. Xác nhận chị M đã nộp đủ.

6. Về quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm, có mặt chị Hoàng Thị M tại phiên toà. Báo cho biết chị M có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Anh Vũ Việt C vắng mặt tại phiên toà. Báo cho biết anh C được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết công khai hợp lệ theo quy định của pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

22
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung số 75/2023/HNGĐ-ST

Số hiệu:75/2023/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đại Từ - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về