Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung số 296/2019/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 296/2019/HNGĐ-ST NGÀY 21/11/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG

Ngày 21 tháng 11 năm 2019 tại Toà án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý: 838/2019/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 4 năm 2019 về việc “Ly hôn, tranh chấp việc nuôi con chung” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 344/2019/QĐXX-ST ngày 31/10/2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1985.

Địa chỉ thường trú: 58B, tổ 3, ấp 4, xã A (nay là phường A), thành phố B, tỉnh Đồng Nai

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn D, sinh năm 1976.

Địa chỉ thường trú: 523, ấp P A, xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

Địa chỉ tạm trú: tổ 41, khu phố 7, phường L, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

(Các đương sự vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản hòa giải, nguyên đơn chị Nguyễn Thị L trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Văn D quen nhau vào khoảng đầu năm 2011 do chị từ tỉnh N vào Biên Hòa làm công nhân, anh D từ tỉnh Đ lên thành phố B làm công nhân, đến tháng 7/2011 thì tổ chức đám cưới và thuê nhà sống chung nhưng không đăng ký kết hôn. Quá trình vợ chồng chung sống hạnh phúc đến khoảng đầu năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh D thường xuyên nhậu nhẹt, gây chuyện đánh đập, xúc phạm chị, làm cho đời sống hôn nhân luôn căng thẳng. Từ tháng 6/2018, chị dẫn con ra phòng trọ sống riêng.

Anh chị đã nhiều lần ngồi lại với nhau tìm cách giải quyết mâu thuẫn và hàn gắn nhưng không có kết quả. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được, nên chị vẫn cương quyết xin ly hôn với anh D để trả tự do cho nhau.

Về con chung: Quá trình chung sống chị và anh D có 02 con chung tên Nguyễn Thị Bảo N, sinh ngày 22/6/2012 và Nguyễn Văn K, sinh ngày 25/5/2015. Ly hôn chị yêu cầu được nuôi dưỡng 2 cháu Nguyễn Thị Bảo N và Nguyễn Văn K, yêu cầu ông Nguyễn Văn D cấp dưỡng nuôi con 2.000.000 đồng/ tháng (1.000.000 đồng/cháu).

Về tài sản chung: Vợ chồng có một căn nhà cấp 4 xây dựng trên thửa đất số 318, tờ bản đồ số 56, diện tích 75m2 tọa lạc tại tổ 41, khu phố 7, phường L, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Ly hôn chị L yêu cầu được sở hữu nhà, đất và thanh toán lại cho anh D ½ giá trị tài sản. Ngoài ra còn có 01 số vật dụng sinh hoạt trong gia đình và 01 xe mô tô hai bên tự thỏa thuận không yêu cầu giải quyết.

Về nợ chung: Nợ Tổ chức tài chính VI MÔ CEP - Chi nhánh Biên Hòa Đông 22.000.000 đồng (nợ gốc 20.000.000 đồng, nợ lãi 2.000.000 đồng). Đề nghị giải quyết mỗi bên chịu ½ khoản nợ này. Nợ Nhóm trẻ M tiền học phí của con trai Nguyễn Văn K số tiền 12.000.000 đồng. Đề nghị giải quyết mỗi bên chịu ½ khoản nợ này.

Quá trình giải quyết vụ án, chị và anh D đã thỏa thuận với nhau được việc giải quyết tài sản chung, tiền nợ chung chị đã thanh toán hết (có xác nhận của chủ nợ) nên chị đã làm đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện, chỉ yêu cầu Tòa án giải quyết về quan hệ hôn nhân và con chung.

Yêu cầu hiện nay của chị cụ thể như sau:

Về quan hệ hôn nhân: Chị yêu cầu xin ly hôn với anh Nguyễn Văn D.

Về con chung: Có 02 con chung tên Nguyễn Thị Bảo N, sinh ngày 22/6/2012 và Nguyễn Văn K, sinh ngày 25/5/2015. Ly hôn chị yêu cầu được nuôi dưỡng 2 cháu Nguyễn Thị Bảo N và Nguyễn Văn K, yêu cầu anh Nguyễn Văn D cấp dưỡng nuôi con 2.000.000 đồng/ tháng (1.000.000 đồng/cháu).

Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Do bận công việc nên chị L đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt.

Tại bản tự khai, biên bản hòa giải, bị đơn anh Nguyễn Văn D trình bày: Về quan hệ hôn nhân: anh và chị L quen nhau vào khoảng đầu năm 2011 do chị L từ tỉnh N vào thành phố B làm công nhân, anh từ tỉnh Đ lên thành phố B làm công nhân, đến tháng 7/2011 thì tổ chức đám cưới và thuê nhà sống chung nhưng không đăng ký kết hôn. Quá trình vợ chồng chung sống hạnh phúc đến khoảng đầu năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống. Anh chị đã nhiều lần ngồi lại với nhau tìm cách giải quyết mâu thuẫn và hàn gắn nhưng không có kết quả. Nay chị L xin ly hôn với anh, anh đồng ý.

Về con chung: Anh và chị L có 02 con chung tên Nguyễn Thị Bảo N, sinh ngày 22/6/2012 và Nguyễn Văn K, sinh ngày 25/5/2015. Ly hôn chị L yêu cầu được nuôi dưỡng 2 cháu Nguyễn Thị Bảo N và Nguyễn Văn K, yêu cầu anh cấp dưỡng nuôi con 2.000.000 đồng/tháng (1.000.000 đồng/cháu), anh đồng ý.

Về tài sản chung: Vợ chồng có tài sản chung như chị L trình bày. Anh thống nhất tài sản chung vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do bận công việc nên anh Dđề nghị Tòa án xét xử vắng mặt.

Ngoài các chứng cứ các đương sự đã cung cấp từ khi thụ lý đến tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn, bị đơn không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ gì khác.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai phát biểu ý kiến:

+ Về việc tuân thủ pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm HĐXX nghị án: đã thực hiện đúng theo quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự. Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai thụ lý vụ án đúng thẩm quyền; xác định quan hệ pháp luật, tư cách của đương sự và thu thập chứng cứ đúng quy định của pháp luật.

+ Về việc giải quyết vụ án: Từ các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ được thông qua tại phiên tòa hôm nay có đủ căn cứ chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Về quan hệ hôn nhân: đề nghị Hội đồng xét xử không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị Nguyễn Thị L và anh Nguyễn Văn D; về con chung: đề nghị giao 02 cháu Nguyễn Thị Bảo N, sinh ngày 22/6/2012 và Nguyễn Văn K, sinh ngày 25/5/2015 cho chị Nguyễn Thị L trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, anh Nguyễn Văn D cấp dưỡng nuôi con 2.000.000 đồng/tháng (1.000.000 đồng/cháu/tháng); về tài sản chung: tự thỏa thuận nên không xem xét; về nợ chung: các đương sự khai không có, không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tư cách tố tụng và quan hệ tranh chấp:

Chị Nguyễn Thị L khởi kiện yêu cầu ly hôn anh Nguyễn Văn D. Căn cứ vào Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự xác định chị L là nguyên đơn, anh Dlà bị đơn. Căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, quan hệ pháp luật được xác định là “Ly hôn, tranh chấp việc nuôi con chung”.

[2] Về thẩm quyền giải quyết: Anh Nguyễn Văn D có địa chỉ cư trú tại phường L, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Căn cứ vào khoản 01 Điều 28, Điều 35, 39 của Bộ luật tố tụng dân sự xác định yêu cầu khởi kiện của chị L thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai nên được xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật.

[3] Về thủ tục tố tụng khác: Nguyên đơn, bị đơn đã được Tòa án tống đạt hợp lệ quyết định đưa vụ án ra xét xử nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt. Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt chị L, anh Dtheo quy định của pháp luật.

[4] Về nội dung tranh chấp:

[4.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị L và anh Nguyễn Văn D chung sống với nhau như vợ chồng từ tháng 7/2011 đến nay không đăng ký kết hôn. Quá trình chung sống hạnh phúc, đến đầu năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng trong quan điểm sống, vợ chồng ly thân từ tháng 6/2018 đến nay nên chị L xin ly hôn.

Xét thấy, việc chị L, anh D chung sống với nhau như vợ chồng từ tháng 7/2011, có đủ điều kiện đăng ký kết hôn nhưng không thực hiện việc đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật nên không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng theo quy định tại Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình. Tại phiên hòa giải chị L, anh D thống nhất yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, căn cứ Điều 53 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Tòa án tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị Nguyễn Thị L và anh Nguyễn Văn D.

[4.2] Về con chung:

Trong thời gian sống chung chị L và anh Dcó 02 con chung tên Nguyễn Thị Bảo N, sinh ngày 22/6/2012 và Nguyễn Văn K, sinh ngày 25/5/2015. Quá trình thụ lý, giải quyết, chị L yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Ngọc, cháu Khánh, anh D cũng thống nhất giao cháu Ngọc và cháu Khánh cho chị L nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con: chị L yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con 2.000.000 đồng/tháng (1.000.000 đồng/cháu/tháng), anh Dđồng ý với mức cấp dưỡng này.

HĐXX xét thấy, thỏa thuận về việc nuôi con chung giữa chị L và anh D là tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội và phù hợp với Điều 81, 82 Luật hôn nhân và gia đình nên ghi nhận, giao cháu Nguyễn Thị Bảo N và cháu Nguyễn Văn K cho chị Nguyễn Thị L trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng sau khi ly hôn. Ghi nhận sự tự nguyện của anh Nguyễn Văn D cấp dưỡng nuôi con chung số tiền 2.000.000 đồng/tháng (1.000.000 đồng/cháu/tháng).

[4.3] Về tài sản chung: Chị L, anh Dtự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết. Do đó, Tòa án không xem xét, giải quyết.

[4.4] Về nợ chung: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị L khởi kiện yêu cầu chia nợ chung đối với số tiền 22.000.000 đồng vay Tổ chức tài chính VI MÔ CEP - Chi nhánh Biên Hòa Đông và số tiền 12.000.000 đồng nợ học phí của con trai Nguyễn Văn K đối với Nhóm trẻ M. Quá trình Tòa án thụ lý, giải quyết, chị L có đơn xin thay đổi yêu cầu khởi kiện, không yêu cầu chia nợ chung do đã thanh toán xong các khoản nợ trên (có văn bản xác nhận của các chủ nợ). Hiện nay, chị L, anh D khai không có nợ chung, không yêu cầu giải quyết nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

[5] Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về hướng giải quyết vụ án phù hợp với nhận định của HĐXX nên chấp nhận.

[6] Về án phí: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị L phải chịu toàn bộ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm. Anh Nguyễn Văn D phải chịu tiền án phí cấp dưỡng nuôi con.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, 35, 39, 68, Khoản 4 Điều 147, 220, 228, 266 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Áp dụng các Điều 14, 53, 57, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị L đối với anh Nguyễn Văn Dvề việc “Ly hôn, tranh chấp việc nuôi con chung”.

- Về quan hệ hôn nhân: Tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị Nguyễn Thị L và anh Nguyễn Văn D.

- Về con chung: Giao 02 con chung là cháu Nguyễn Thị Bảo N, sinh ngày 22/6/2012 và Nguyễn Văn K, sinh ngày 25/5/2015 cho chị Nguyễn Thị L trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng. Anh Nguyễn Văn D có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 2.000.000 đồng (1.000.000 đồng/cháu). Thời gian cấp dưỡng từ khi bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi các cháu Nguyễn Thị Bảo N và Nguyễn Văn K thành niên và có khả năng lao động.

Anh Dkhông trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung mà không ai được cản trở. Vì lợi ích của con chung, trong trường hợp cần thiết, một trong các bên có quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con, yêu cầu thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án không thanh toán số tiền trên, thì hàng tháng người phải thi hành án còn phải thanh toán cho người được thi hành án số tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015, tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

- Về tài sản chung: Các đương sự tự thỏa thuận nên không không đặt ra xem xét. xét.

- Về nợ chung: Các đương sự khai không có nên không không đặt ra xem 2. Về án phí:

Chị Nguyễn Thị L phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm. Khấu trừ số tiền tạm ứng án phí chị L đã nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0004668 ngày 16 tháng 4 năm 2019 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai; chị L đã nộp đủ tiền án phí. Hoàn trả cho chị Nguyễn Thị L số tiền tạm ứng án phí đã nộp 1.000.000 đồng (Một triệu đồng) theo biên lai thu số 0004666 ngày 16 tháng 4 năm 2019 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Biên Hòa.

Anh Nguyễn Văn Dphải nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí cấp dưỡng nuôi con.

Trường hợp Bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014).

3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

148
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung số 296/2019/HNGĐ-ST

Số hiệu:296/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về