TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BA BỂ – TỈNH BẮC KẠN
BẢN ÁN 11/2022/HNGĐ-ST NGÀY 26/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG
Ngày 26 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số:
26/2022/TLST – HNGĐ, ngày 19 tháng 7 năm 2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:
09/2022/QĐXXST-HNGĐ, ngày 24 tháng 8 năm 2022 giữa:
* Nguyên đơn: Chị Lý Thị T, sinh năm 1995. Có mặt.
* Bị đơn: Anh Nguyễn Văn K, sinh năm 1993. Vắng mặt.
Đều cư trú tại: Thôn N, xã B, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Tại đơn khởi kiện đề ngày 03/7/2022 và quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn Lý Thị T trình bày:
- Về quan hệ hôn nhân: Chị Lý Thị T và anh Nguyễn Văn K kết hôn với nhau vào ngày 10/11/2015, trên cơ sở hai bên hoàn toàn tự nguyện được tìm hiểu về nhau, được hai bên gia đình tổ chức cưới hỏi theo phong tục tập quán của địa phương và đăng ký kết hôn hợp pháp tại UBND xã Đ, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn vào ngày 10/11/2015. Trong quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân theo chị T là anh K thường xuyên uống rượu, chơi cơ bạc, không chăm lo cho đời sống gia đình, không tập trung làm ăn, dẫn đến vợ chồng không có tiếng nói chung, bất đồng quan điểm sống trong mọi việc. Từ tháng 7 năm 2017 vợ chồng chị đã sống ly thân, quá trình sống ly thân đến nay đã được 4 năm cả hai bên không ai quan tâm đến ai, kinh tế mỗi người tự làm tự lo cuộc sống riêng. Chị T xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, chị yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Văn K.
- Về con chung: Chị T và anh Nguyễn Văn K có 01 con chung là Nguyễn Thị Ngọc L, sinh ngày 22/10/2016. Con khỏe mạnh và phát triển bình thường. Khi ly hôn chị T yêu cầu được trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung cho đến khi con đủ 18 tuổi.
- Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị T không yêu cầu anh K phải cấp dưỡng, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Về tài sản chung: Chị Lý Thị T không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Về vay nợ chung: Chị Lý Thị Tg khẳng định chị và anh Nguyễn Văn Kh không có vay nợ chung, chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết.
* Bị đơn Nguyễn Văn K: Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án không tiến hành lấy được bản tự khai, lời khai của bị đơn do anh K không hợp tác, Tòa án đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng, thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập, thông báo phiên hòa giải và quyết định đưa vụ án ra xét xử, nhưng bị đơn Nguyễn Văn K không đến Tòa án để làm việc.
* Các tài liệu xác minh tại địa phương thể hiện: Vợ chồng chị Lý Thị T và anh Nguyễn Văn K là công dân có hộ khẩu, sinh sống và làm ăn tại thôn N , xã B (Ở chung với bố mẹ đẻ của anh K) và có 01 người con chung. Thời gian sinh sống tại địa phương thấy anh K và chị Tg có xảy ra mâu thuẫn cãi và chửi mắng nhau, vào khoảng tháng 7 năm 2017 vợ chồng chị Tg anh K có chửi, đuổi đánh nhau trong đêm, T và anh K làm ăn, sinh sống cũng nhau tại thôn nữa, còn anh Khánh sau đó cũng đi làm công nhân, thỉnh thoảng ngày nghỉ, lễ, tết mới thấy về nhà ở thôn N, xã B.
Tòa án đã triệu tập hợp lệ anh K nhiều lần đề giải quyết vụ án nhưng anh Khánh không có mặt, phiên tòa đã triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng anh Nguyễn Văn K vắng mặt không có lý do.
Tại phiên tòa, Viện kiểm sát nhân dân huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và ý kiến về việc giải quyết vụ án.
* Về tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án cho đến khi xét xử, Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử đã chấp hành đầy đủ các quy định của pháp luật tố tụng dân sự; các đương sự không bị hạn chế quyền tham gia tố tụng và thực hiện đúng quy định pháp luật về tố tụng. Bị đơn vắng mặt nên không tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
* Về yêu cầu khởi kiện của đương sự và đường lối giải quyết vụ án.
- Về quan hệ hôn nhân: Qua tài liệu và ý kiến của nguyên đơn thấy, chị Lý Thị T và anh Nguyễn Văn Kh có kết hôn hợp pháp, quá trình chung sống đã phát sinh mâu thuẫn dẫn đến chị T không về chung sống với anh K, vợ chồng đã sống ly thân. Chị Tg xác định vợ chồng không còn tình cảm, bất đồng quan điểm sống nên theo quy định tại khoản 1, Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì không đảm bảo được hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được, chị Tường xin ly hôn với anh Nguyễn Văn K là có căn cứ.
- Về con chung: Chị Lý Thị T và anh Nguyễn Văn K có 01 con chung là Nguyễn Thị Ngọc L, sinh ngày 22/10/2016. Con khỏe mạnh và phát triển bình thường. Khi ly hôn, chị T yêu cầu được trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung cho đến khi con đủ 18 tuổi.
- Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Về tài sản chung và vay nợ chung: Chị Lý Thị Tg không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Đề nghị căn cứ khoản 1, Điều 28; khoản 1, Điều 35; điểm a, khoản 1, Điều 39; Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự. khoản 1, Điều 56; Điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2014 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
* Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận đơn xin ly hôn của chị Lý Thị T, chị Tường được ly hôn với anh Nguyễn Văn Kh.
* Về con chung: Giao con chung Nguyễn Thị Ngọc L, sinh ngày 22/10/2016. cho chị Lý Thị T trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung cho đến khi con đủ 18 tuổi.
* Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên đề nghị HĐXX không xem xét.
Sau khi ly hôn, anh Nguyễn Văn K có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.
* Về tài sản chung và vay nợ chung: Chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
* Về án phí: Đương sự phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng: Đây là vụ án hôn nhân và gia đình vợ chồng có đăng ký kết hôn hợp pháp, các đương sự đều có nơi cư trú tại xã B, huyện Ba Bể. Căn cứ vào khoản 1, Điều 28; khoản 1, Điều 35 và khoản 1, Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn. Bị đơn Nguyễn Văn K không hợp tác và được Tòa án tiến hành thông báo hòa giải nhưng anh Khánh không có mặt, chị Tg không yêu cầu hòa giải nên Tòa án không tiến hành hòa giải vụ án theo quy định tại Điều 207/BLTTDS, tuy nhiên vẫn tiến hành phiên họp kiểm tra, giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ theo quy định tại Điều 208/BLTTDS.
Tại phiên tòa, bị đơn Nguyễn Văn Kh đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 vẫn vắng mặt. Căn cứ điểm b, khoản 1, Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là phù hợp với quy định của pháp luật.
[2]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Lý Thị T và anh Nguyễn Văn Kh kết hôn với nhau vào ngày 10/11/2015, trên cơ sở hai bên hoàn toàn tự nguyện, không bị ép buộc, được hai bên gia đình tổ chức cưới hỏi theo phong tục tập quán của địa phương và đăng ký kết hôn hợp pháp tại UBND xã Địa L, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn. Trong quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân theo chị T là do anh K thường xuyên uống rượu, chơi cơ bạc, không chăm lo cho đời sống gia đình, không tập trung làm ăn, dẫn đến vợ chồng không có tiếng nói chung, bất đồng quan điểm sống. Từ tháng 7 năm 2017 vợ chồng đã sống ly thân, quá trình sống ly thân đến nay cả hai bên không ai quan tâm đến ai, không ai hàn gắn tình cảm vợ chồng, kinh tế mỗi người tự làm tự lo cuộc sống riêng. Đồng thời xác minh tại địa phương thể hiện vợ chồng chị T, anh Khánh có xảy ra mâu thuẫn, cãi chửi và đuổi đánh nhau trong đêm vào tháng 7 năm 2017, từ đó thấy chị T và anh K không còn sống chung, làm ăn, tại địa phương. Chị T xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, đã sống ly thân chị yêu cầu xin ly hôn là có căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình, nên được chấp nhận.
[3] Về con chung: Chị T và anh Nguyễn Văn K có 01 con chung là Nguyễn Thị Ngọc L, sinh ngày 22/10/2016. Con khỏe mạnh và phát triển bình thường. Khi ly hôn, chị T yêu cầu được trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung cho đến khi con đủ 18 tuổi.
Xét thấy, anh K hiện nay đi làm công nhân, không trực tiếp nuôi con, đồng thời cũng không có ý kiến gì khi Tòa án giải quyết vụ án. Mặt khác, chị T thường xuyên quan tâm, chăm sóc chu cấp tiền nuôi con đầy đủ và có nguồn thu nhập ổn định hơn. Để đảm bảo quyền lợi của con chung cần giao con Nguyễn Thị Ngọc L, sinh ngày 22/10/2016 cho chị Lý Thị T trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi con đủ 18 tuổi là phù hợp quy định của pháp luật.
* Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên HĐXX không xem xét.
Sau khi ly hôn, anh Nguyễn Văn K có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Vì lợi ích của con chung khi cần thiết các bên có quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con, cấp dưỡng nuôi con.
[4] Về tài sản chung: Chị Lý Thị T không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
[5] Về vay nợ chung: Chị Lý Thị T không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
[6]. Về án phí: Chị Lý Thị T phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[7]. Quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1, Điều 28; khoản 1, Điều 35; khoản 1, Điều 39; Điều 147, Điều 227; Điều 228; Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 53, khoản 1, Điều 56; Điều 81, 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điểm a, khoản 5, Điều 27 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2014 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận đơn khởi kiện về việc xin ly hôn của chị Lý Thị T.
1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lý Thị Tg, chị Tường được ly hôn với anh Nguyễn Văn Kh.
2. Về con chung: Giao con chung Nguyễn Thị Ngọc L, sinh ngày 22/10/2016 cho chị Lý Thị T trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.
Anh Nguyễn Văn K có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Vì lợi ích của con chung khi cần thiết các bên có quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con, cấp dưỡng nuôi con.
3. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết.
4. Về tài sản chung và vay nợ chung: Chị Lý Thị T không yêu cầu Tòa án giải quyết.
5. Về án phí: Chị Lý Thị T phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị T đã nộp theo biên lai thu tiền số 0001053 ngày 19/7/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn. Xác nhận chị T đã nộp đủ án phí.
Án xử công khai sơ thẩm, có mặt nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Vắng mặt bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành bản án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”./. 7
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung số 11/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 11/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Ba Bể - Bắc Kạn |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 26/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về