TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN G, TỈNH GIA LAI
BẢN ÁN 46/2023/HNGĐ-ST NGÀY 08/11/2023 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG KHI LY HÔN
Ngày 08 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện G, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình sơ thẩm thụ lý số 88/2023/TLST- HNGĐ ngày 12 tháng 6 năm 2023, về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con chung khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 38/2023/QĐXXST-HNGĐ ngày 11 tháng 9 năm 2023, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Anh Đỗ Văn B; địa chỉ: Thôn V, xã Y, huyện G, tỉnh Gia Lai. Có mặt.
- Bị đơn: Chị Nguyễn Thị L; địa chỉ: Thôn V, xã Y, huyện G, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
1. Nguyên đơn Đỗ Văn B trình bày:
- Về hôn nhân: Anh Đỗ Văn B và chị Nguyễn Thị L tự nguyện đăng ký kết hôn vào ngày 14/11/2019 tại Ủy ban nhân dân xã Y, huyện G, tỉnh Gia Lai. Sau khi kết hôn vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong làm ăn kinh tế dẫn đến cãi nhau, từ tháng 6/2022 chị L bỏ đi làm ăn xa, vợ chồng không còn chung sống với nhau, chị L thỉnh thoảng mới về gặp nhau. Anh B nhận thấy không thể tiếp tục duy trì quan hệ hôn nhân với chị L, mục đích hôn nhân không đạt được, vợ chồng không còn khả năng đoàn tụ nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với chị L.
- Về con chung: Anh Đỗ Văn B và Chị Nguyễn Thị L có 01 con chung là cháu Đỗ Xuân T, sinh ngày 20 tháng 10 năm 2020. Hiện nay chị L đang là người trực tiếp nuôi dưỡng con và con còn nhỏ nên anh B yêu cầu giao con chung cho chị L nuôi, anh B không cấp dưỡng nuôi con do chị L không có yêu cầu.
- Về chia tài sản chung: Anh Đỗ Văn B không yêu cầu Tòa án giải quyết.
2. Tòa án đã thực hiện việc tống đạt các văn bản tố tụng để triệu tập bị đơn là chị Nguyễn Thị L đến làm việc liên quan đến vụ án nhưng chị Nguyễn Thị L cố tình trốn tránh, không có mặt theo Giấy triệu tập. Do vậy, hồ sơ không có lời khai của chị Nguyễn Thị L.
3. Đương sự đã giao nộp và Tòa án thu thập các tài liệu, chứng cứ: Giấy chứng nhận kết hôn; Giấy khai sinh cháu Đỗ Xuân T; Đơn xin đề nghị của anh Đỗ Văn B; 02 Biên bản xác minh ngày 13/7/2023 của Tòa án.
4. Phát biểu ý kiến, đại diện Viện kiểm sát khẳng định trong quá trình giải quyết vụ án những người tiến hành tố tụng đã tuân thủ đầy đủ các thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật; Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử cũng đã thực hiện đầy đủ các thủ tục tố tụng kể từ khi bắt đầu phiên tòa cho đến trước khi nghị án; Đối với bị đơn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai liên tiếp nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 228 của B luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt; Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn B yêu cầu ly hôn và nuôi con chung của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về thủ tục tố tụng: Xét nội dung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn phù hợp với quy định của pháp luật, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện G được quy định tại các Điều 28, Điều 35 và Điều 39 của B luật Tố tụng dân sự nên được xem xét giải quyết. Trong quá trình giải quyết vụ án những người tiến hành tố tụng đã tuân thủ đầy đủ các thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật. Đối với bị đơn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai liên tiếp nên Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 228 của B luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt.
[2] Về hôn nhân: Anh Đỗ Văn B và chị Nguyễn Thị L có đăng ký kết hôn vào ngày 14/11/2019 tại Ủy ban nhân dân xã Y, huyện G, tỉnh Gia Lai. Anh Đỗ Văn B và chị Nguyễn Thị L kết hôn trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, không trái pháp luật và có đăng ký kết hôn nên đây là hôn nhân hợp pháp. Hội đồng xét xử thấy rằng, anh B nêu lý do yêu cầu ly hôn là sau khi kết hôn vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong làm ăn kinh tế dẫn đến cãi nhau, từ tháng 6/2022 anh B và chị L không còn chung sống với nhau do chị L bỏ đi làm ăn xa, vợ chồng thỉnh thoảng mới gặp nhau. Chị L không tham gia các phiên hòa giải để đoàn tụ và tại phiên tòa cũng vắng mặt, điều đó cho thấy chị L không thực sự có thiện chí mong muốn được Tòa án hòa giải để vợ chồng được đoàn tụ. Như vậy, có đủ căn cứ để khẳng định mâu thuẫn vợ chồng giữa anh Đỗ Văn B và chị Nguyễn Thị L đã quá trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, vợ chồng không còn khả năng đoàn tụ nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh Đỗ Văn B.
[3] Về con chung: Anh Đỗ Văn B và Chị Nguyễn Thị L có 01 con chung là cháu Đỗ Xuân T, sinh ngày 20 tháng 10 năm 2020. Hiện nay chị L đang là người trực tiếp nuôi dưỡng con và con còn nhỏ nên anh B yêu cầu giao con chung cho chị L nuôi, anh B không cấp dưỡng nuôi con do chị L không có yêu cầu. Hội đồng xét xử thấy rằng, từ khi vợ chồng ly thân thì con vẫn do chị L trực tiếp chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng, chị L không có ý kiến đối với yêu cầu của anh B về việc nuôi con. Do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của anh B về việc giao con chung cho chị L nuôi. Chị L không có ý kiến về cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[4] Về chia tài sản chung: Anh Đỗ Văn B không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[5] Về án phí: Anh Đỗ Văn B là người khởi kiện yêu cầu ly hôn nên phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Áp dụng các Điều 8, Điều 9, Điều 51, Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình.
- Áp dụng các Điều 144, Điều 147, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Áp dụng Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Về hôn nhân:
Cho ly hôn giữa anh Đỗ Văn B và chị Nguyễn Thị L.
2. Về con chung:
Giao con chung của anh Đỗ Văn B và chị Nguyễn Thị L là cháu Đỗ Xuân T, sinh ngày 20 tháng 10 năm 2020 cho chị Nguyễn Thị L trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cho đến khi thành niên hoặc đã thành niên mà mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Anh Đỗ Văn B không phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con chung.
3. Về án phí: Buộc anh Đỗ Văn B phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), được khấu trừ vào số tiền đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng phí, lệ phí Tòa án số 0008910 ngày 28/6/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện G, tỉnh Gia Lai. Anh Đỗ Văn B đã nộp đủ tiền án phí.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6; Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, các đương sự có quyền kháng cáo Bản án để yêu cầu xét xử phúc thẩm. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản hoặc bản án được niêm yết.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung khi ly hôn số 46/2023/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 46/2023/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Ia Grai - Gia Lai |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 08/11/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về