TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG
BẢN ÁN 45/2024/HNGĐ-ST NGÀY 19/02/2024 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG KHI LY HÔN
Ngày 19 tháng 02 năm 2024 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 532/2023/TLST-HNGĐ ngày 23 tháng 11 năm 2023 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con chung khi ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 16/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 01 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 27/2024/QĐST-HNGĐ ngày 31 tháng 01 năm 2024 giữa các đương sự:
1.Nguyên đơn: Chị Phạm Thị Ph, sinh năm 1988. HKTT: Thôn A, xã A, huyện N, tỉnh Hải Dương.
Hiện ở: Số 12, ngõ 60, P, phường C, thành phố H, tỉnh Hải Dương. Vắng mặt và đề nghị xét xử vắng mặt.
2. Bị đơn: Anh Nguyễn Bá Q, sinh năm 1985.
Địa chỉ trước khi xuất cảnh: Thôn A, xã A, huyện N, tỉnh Hải Dương. Hiện đang cư trú tại Đài Loan – Trung Quốc. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Phạm Thị Ph trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Bá Q tự do tìm hiểu có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện N, tỉnh Hải Dương ngày 14/11/2008. Vợ chồng sống hòa thuận, hạnh phúc đến năm 2015 chị sang Đài Loan – Trung Quốc lao động. Năm 2016 anh Q cùng sang Đài Loan – Trung Quốc lao động. Sau đó chị phát hiện anh Q ngoại có quan hệ ngoài vợ chồng với người phụ nữ khác, chị đã nhiều lần khuyên nhủ nhưng anh Q không thay đổi. Năm 2022 chị về Việt Nam, anh Q vẫn ở Đài Loan-Trung Quốc lao động, vợ chồng thiếu niềm tin, không tìm được tiếng nói chung. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị ly hôn anh Nguyễn Bá Q theo quy định.
Về con chung: Vợ chồng chị có 01 con chung là Nguyễn Thiên Ng, sinh ngày 26/5/2010, hiện đang ở cùng với chị. Do hiện nay anh Q đang lao động tại nước ngoài, con chung còn nhỏ nên khi ly hôn chị có nguyện vọng được nuôi con và tự nguyện không yêu cầu anh Q cấp dưỡng cho con.
Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại lời khai của ông Nguyễn Bá S(bố đẻ anh Nguyễn Bá Q) thể hiện: Anh Q hiện đang sinh sống tại Đài Loan-Trung Quốc, địa chỉ cụ thể thì ông không biết, nhưng anh Q thường xuyên liên lạc qua điện thoại với gia đình. Ông đồng ý nhận các văn bản tố tụng của Tòa án và có trách nhiệm thông báo cho anh Q biết.Vợ chồng chị Ph, anh Q trước đây đều sang Đài Loan – Trung Quốc lao động, do chị Ph sức khỏe yếu nên đã về Việt Nam mở xưởng may, nhưng làm ăn thua lỗ dẫn đến vợ chồng xảy ra mâu thuẫn. Mặt khác do sống xa nhau hai bên nghi ngờ sự chung thủy nên mâu thuẫn càng trầm trọng. Tháng 6/2023 chị P đã đưa con ra ngoài ở riêng. Nay chị Ph có đơn ly hôn, ông đề nghị Tòa án căn cứ vào quy định pháp luật để giải quyết. Sau khi nhận các văn bản tố tụng, ông đã thông báo cho anh Q biết. Anh Q không gửi văn bản thể hiện quan điểm về việc giải quyết vụ án nhưng có trao đổi với ông qua điện thoại và xác định chị Ph có đơn ly hôn anh cũng đồng ý và đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định.Về con chung: Anh Q cũng nhất trí giao con chung cho chị Ph tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, anh Q không phải cấp dưỡng tiền nuôi con. Về tài sản chung không đề nghị Tòa án giải quyết.
Tòa án xác minh tại địa phương nơi các đương sự đăng ký kết hôn và sinh sống thể hiện: Chị Phạm Thị Ph và anh Nguyễn Bá Q kết hôn hợp pháp, thông qua gia đình địa phương nắm được vợ chồng anh chị trước đây có thời gian lao động ở nước ngoài, sau đó chị Ph về Việt Nam còn anh Q vẫn ở nước ngoài. Hai bên có xảy ra mâu thuẫn, chị Ph đã đưa con đi ở nơi khác. Nay chị Ph có đơn ly hôn, địa phương đề nghị Tòa án xem xét nguyện vọng của các đương sự và quy định của pháp luật để giải quyết.
Cháu Nguyên Thiên Ngọc là con chung của anh Q, chị Ph có nguyện vọng được ở với mẹ khi bố mẹ ly hôn.
Tại phiên tòa: Chị Phạm Thị Ph vắng mặt, có quan điểm đề nghị xét xử vắng mặt đồng thời giữ nguyên các ý kiến đã trình bày. Anh Nguyễn Bá Q vắng mặt.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương phát biểu quan điểm: Thẩm phán, Hội đồng xét xử (HĐXX), Thư ký phiên tòa và nguyên đơn đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự (viết tắt BLTTDS), bị đơn giấu địa chỉ, không có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án. Về việc giải quyết vụ án.
Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật HNGĐ, Điều 147 BLTTDS; Nghị quyết 326 quy định về mức thu, miễn giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử cho chị Phạm Thị Ph ly hôn anh Nguyễn Bá Q. Về con chung: Giao con chung là Nguyễn Thiên Ng, sinh ngày 26/5/2010 cho chị Ph chăm sóc, nuôi dưỡng. Chấp nhận sự tự nguyện của chị Ph không yêu cầu anh Q cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung: Không đặt ra giải quyết. Về án phí: Chị Ph phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và xem xét, quan điểm đại diện Viện kiểm sát, HĐXX nhận định:
[1]. Về tố tụng: Bị đơn anh Nguyễn Bá Q có nơi cư trú cuối cùng trước khi xuất cảnh ở thôn A xã A, huyện N, tỉnh Hải Dương, hiện đang sinh sống tại Đài Loan – Trung Quốc, không rõ địa chỉ cụ thể. Do vậy, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền. Trong quá trình giải quyết vụ án, chị Ph và gia đình ông Sỉu không cung cấp được địa chỉ cụ thể của anh Q ở nước ngoài. Tòa án cũng đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật. Mặt khác, gia đình ông Sỉu vẫn thường xuyên liên lạc với anh Q nên Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng cho gia đình để thông báo cho anh Q biết việc chị Ph đề nghị giải quyết ly hôn và các thủ tục tố tụng khác. Gia đình đã nhận các văn bản tố tụng và đã thông báo cho anh Q biết. Tại phiên tòa, anh Q vắng mặt lần thứ hai, chị Ph có quan điểm đề nghị xét xử vắng mặt. Do vậy căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định của pháp luật.
[2]Về nội dung:
[2.1]Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị Ph và anh Nguyễn Bá Q kết hôn tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện N, tỉnh Hải Dương vào ngày 14/11/2008, là hôn nhân hợp pháp.Thời gian đầu vợ chồng sống hòa thuận hạnh phúc, khoảng năm 2022 vợ chồng xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do kinh tế gặp khó khăn, mỗi người sống một nơi dẫn đến nghi ngờ, không tin tưởng nhau, không tìm được tiếng nói chung trong quan hệ hôn nhân. Anh Nguyễn Bá Q không thể hiện quan điểm bằng văn bản nhưng thông qua việc liên lạc với gia đình, anh Q xác định không còn tình cảm với chị Ph nên cũng đồng ý ly hôn. HĐXX xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Phạm Thị Ph và anh Nguyễn Bá Q đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được và được chứng minh thông qua lời khai của đại diện gia đình, quan điểm của địa phương và của các đương sự. Do vậy, chấp nhận yêu cầu khởi kiện, xử cho chị Phạm Thị Ph ly hôn anh Nguyễn Bá Q là phù hợp với quy định tại Điều 51 và 56 Luật Hôn nhân và gia đình.
[2.2] Về con chung: Chị Phạm Thị Ph và anh Nguyễn Bá Q có một con chung là Nguyễn Thiên Ng, sinh ngày 26/5/2010. Xét về thực tế anh Q đang ở nước ngoài không có đủ điều kiện để nuôi con, thông qua gia đình anh Q cũng nhất trí để chị Ph tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung. Chị Ph có đủ điều kiện nuôi con và hiện nay con chung còn nhỏ nên để đảm bảo sự ổn định và sự phát triển về mọi mặt của con chung, HĐXX chấp nhận giao cho chị Phạm Thị Ph nuôi dưỡng con chung Nguyễn Thiên Ng, sinh ngày 26/5/2010 và chấp nhận sự tự nguyện của chị Ph không yêu cầu anh Q cấp dưỡng cho con là phù hợp với nguyện vọng của các đương sự và các Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình. Trường hợp anh Q có căn cứ cho rằng chị Ph không đủ điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung thì anh có quyền làm đơn khởi kiện tại Tòa án có thẩm quyền giải quyết yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con theo quy định của pháp luật.
[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên HĐXX không xem xét giải quyết. Các đương sự có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết phân chia tài sản chung sau khi ly hôn theo quy định của pháp luật (nếu có).
[3] Về án phí: Chị Phạm Thị Ph phải chịu án phí dân sự (về hôn nhân gia đình) sơ thẩm theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự, Điểm a, Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì những lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng các Điều 51; 56; 81; 82; 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điểm a, Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Phạm Thị Ph ly hôn anh Nguyễn Bá Q.
2. Về con chung: Giao cho chị Phạm Thị Ph chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung Nguyễn Thiên Ng, sinh ngày 26/5/2010 cho đến khi con chung thành niên (đủ 18 tuổi). Chấp nhận sự tự nguyện của chị Phạm Thị Ph không yêu cầu anh Nguyễn Bá Q cấp dưỡng cho con.
Không ai được cản trở anh Nguyễn Bá Q thực hiện quyền, nghĩa vụ trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.
3. Về án phí: Chị Phạm Thị Ph phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm (về Hôn nhân gia đình) và được đối trừ số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp thay theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000321 ngày 23 tháng 11 năm 2023 tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương.
4. Về quyền kháng cáo: Anh Nguyễn Bá Q được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Chị Phạm Thị Ph được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung khi ly hôn số 45/2024/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 45/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hải Dương |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 19/02/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về