Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung khi ly hôn số 20/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÁT XÁT, TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 20/2022/HNGĐ-ST NGÀY 14/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG KHI LY HÔN

Ngày 14 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 43/2022/TLST - HNGĐ ngày 08 tháng 7 năm 2022, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 19/2022/QĐXXST - HNGĐ ngày 12 tháng 8 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 16/2022/QĐST-HNGĐ ngày 29/8/2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: chị Vùi Thị L – Sinh năm 1989. (Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt).

2. Bị đơn: anh Giàng A Th - Sinh năm 1986;

Cùng địa chỉ: thôn H, xã B, huyện B, tỉnh Lào Cai. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện nộp Tòa án ngày 27/6/2022 và quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Vùi Thị L trình bày:

Chị và anh Giàng A Th kết hôn với nhau có đăng ký ngày 21/5/2008, tại Uỷ ban nhân dân xã Bản Qua, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai.

Sau ngày cưới vợ chồng về sống hạnh phúc đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính tình không hợp, bất đồng về quan điểm sống và nuôi dạy con, mặt khác anh Thắng không chung thủy, từ đó cuộc sống vợ chồng luôn phát sinh mâu thuẫn, dẫn đến hay cãi nhau khiến cho cuộc sống gia đình luôn căng thẳng, không có hạnh phúc, gây tâm lý bất ổn cho các con. Ngoài ra anh Thắng thường xuyên đi làm ăn xa nhà, thỉnh thoảng mới về, mỗi lần về là lại cãi nhau, thực tế vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2019 không còn quan tâm đến nhau. Sau khi mâu thuẫn sảy ra gia đình hai bên đã khuyên giải nhưng mâu thuẫn không khắc phục được. Đến nay chị xét thấy tình cảm không còn, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn.

Về con chung: Quá trình chung sống, vợ chồng chị sinh được 4 con chung, cháu thứ nhất Giàng Thanh Thủy, sinh ngày 26/01/2009; cháu thứ hai Giàng Thanh Thúy, sinh ngày 26/01/2010; cháu thứ ba Giàng Thị Huyền, sinh ngày 25/9/2011 và cháu thứ tư Giàng Minh T, sinh ngày 01/3/2018. Từ ngày sống ly thân các cháu đang ở với chị, khi ly hôn chị xin nuôi cả 4 cháu, vì hiện tại anh Thắng đi làm ăn thỉnh thoảng mới về nhà, điều kiện để chăm sóc các con là không có, chị không yêu cầu anh Thắng cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Về tài sản: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết, quá trình chung sống vợ chồng không nợ ai và không cho ai vay.

Đối với bị đơn anh Giàng A Th, do thường xuyên vắng mặt tại nơi cư trú, vì vậy Tòa án không tống đạt trực tiếp được các văn bản tố tụng, đã niêm yết công khai tại nơi cư trú theo qui định của pháp luật nhưng anh Giàng A Th không có văn bản trả lời và không đến Toà án.

Đối với vụ án này Tòa án không hòa giải được vì nguyên đơn có đơn đề nghị Tòa án không hòa giải.

Tại đơn xin xét xử vắng mặt chị Vùi Thị L vẫn giữ nguyên quan điểm như trong đơn khởi kiện và các bản khai.

Tại phiên toà Viện kiểm sát nhân dân huyện Bát Xát có quan điểm: Thẩm phán, hội đồng xét xử giải quyết vụ án dân sự tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, đảm bảo việc giải quyết vụ án dân sự kịp thời, đúng pháp luật, thu thập chứng cứ đúng theo qui định pháp luật. Nguyên đơn thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, bị đơn chưa thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật tố tụng dân sự.

Đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình, khoản 4 Điều 147; khoản 2 Điều 227;

khoản 1 và 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án ngày 30/12/2016, đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo hướng: Về quan hệ hôn nhân: cho chị Vùi Thị L được ly hôn anh Giàng A Th. Về con chung: Giao cả 4 cháu, Giàng Thanh Thủy, sinh ngày 26/01/2009; Giàng Thanh Thúy, sinh ngày 26/01/2010; Giàng Thị Huyền, sinh ngày 25/9/2011 và Giàng Minh T, sinh ngày 01/3/2018 cho chị Vùi Thị L trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi, anh Giàng A Th không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về án phí: Chị Vùi Thị L phải chịu án phí theo qui định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên toà, kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Chị Vùi Thị L khởi kiện anh Giàng A Th về việc ly hôn, đây là tranh chấp về Hôn nhân và Gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, anh Giàng A Th có địa chỉ tại huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai, Tòa án nhân dân huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai thụ lý vụ án để giải quyết là phù hợp với khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Tại phiên tòa hôm nay chị Vùi Thị L có đơn xin xét xử vắng mặt, anh Giàng A Th vắng mặt lần thứ hai không có lý do mặc dù đã được Toà án triệu tập hợp lệ. Hội đồng xét xử căn cứ điểm a, b khoản 2 điều 227; khoản 1 và 3 Điều 228; điểm a, b khoản 1 Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt chị Vùi Thị L và anh Giàng A Th.

[2] Chị Vùi Thị L và anh Giàng A Th kết hôn với nhau có đăng ký tại Ủy ban nhân dân xã Bản Qua, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai, theo giấy chứng nhận kết hôn số 27, quyển số 01, ngày 21 tháng 5 năm 2008 trên cơ sở tự nguyện, như vậy hôn nhân này là hợp pháp và được pháp luật bảo vệ và công nhận.

[3] Xét đối với yêu cầu của nguyên đơn:

Chị Vùi Thị L và anh Giàng A Th sau khi kết hôn, chung sống với nhau được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình không hợp, quan điểm không thống nhất, thực tế thì vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2019, không quan tâm đến nhau, chính quyền địa phương cũng xác nhận việc vợ chồng chị Vùi Thị L chung sống với nhau có mâu thuẫn và hiện tại sống ly thân như ở trên. Xét thấy mâu thuẫn của chị Vùi Thị L và anh Giàng A Th là có thật, mâu thuẫn của vợ chồng, do chị Vùi Thị L cung cấp phù hợp với nội dung xác nhận của địa phương. Nay chị Vùi Thị L xin ly hôn là có căn cứ, chấp nhận yêu cầu của chị Vùi Thị L, áp dụng khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 xử cho chị Vùi Thị L đựợc ly hôn anh Giàng A Th.

[4] Về con: Chị Vùi Thị L và anh Giàng A Th sinh được sinh được 4 con chung, cháu thứ nhất Giàng Thanh Thủy, sinh ngày 26/01/2009; cháu thứ hai Giàng Thanh Thúy, sinh ngày 26/01/2010; cháu thứ ba Giàng Thị Huyền, sinh ngày 25/9/2011 và cháu thứ tư Giàng Minh T, sinh ngày 01/3/2018. Từ ngày sống ly thân các cháu đang ở với chị, khi ly hôn chị xin nuôi cả 4 cháu.

Xét thấy chị Vùi Thị L hiện là lao động tự do, mức thu nhập bình quân đối với lao động tự do tại địa phương nơi chị Vùi Thị L sinh sống là từ 150.000 (một trăm năm mươi nghìn) đồng đến 200.000 (hai trăm nghìn) đồng/ ngày, bản thân anh Giàng A Th thường xuyên vắng nhà, thỉnh thoảng mới về, từ khi thụ lý vụ án anh Giàng A Th không đến và không có văn bản trả lời, mặt khác cả 3 cháu lớn đều muốn ở với chị Linh, vì vậy Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị Linh, giao cả 04 cháu cho chị Linh nuôi dưỡng đến khi các cháu trưởng thành đủ 18 tuổi là phù hợp với Điều 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

[5] Về tiền cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Vùi Thị L không yêu cầu anh Giàng A Th cấp dưỡng tiền nuôi con chung, vì vậy hội đồng xét xử không giải quyết.

[6] Về tài sản: Chị Vùi Thị L không yêu cầu Toà án giải quyết, vì vậy Hội đồng xét xử không giải quyết.

[7] Về án phí: Căn cứ vào khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án ngày 30/12/2016, chị Vùi Thị L phải chịu án phí ly hôn theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm a, b khoản 2 Điều 227; khoản 1 và 3 Điều 228; điểm a, b khoản 1 Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81, 82, và 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án ngày 30/12/2016.

Tuyên xử:

1. Xử cho chị Vùi Thị L được ly hôn anh Giàng A Th.

2. Về con: Chị Vùi Thị L trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Giàng Thanh T, sinh ngày 26/01/2009; cháu thứ hai Giàng Thanh T, sinh ngày 26/01/2010; cháu thứ ba Giàng Thị H, sinh ngày 25/9/2011 và cháu thứ tư Giàng Minh T, sinh ngày 01/3/2018 cho đến khi các cháu trưởng thành đủ 18 tuổi.

Chị Vùi Thị L không yêu cầu anh Giàng A Th cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Anh Giàng A Th có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Vùi Thị L phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm nhưng được khấu trừ số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai theo biên lai số 0002237 ngày 06 tháng 7 năm 2022.

4. Về quyền kháng cáo: Các đương sự, có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

114
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung khi ly hôn số 20/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:20/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bát Xát - Lào Cai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về