Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung khi ly hôn số 03/2024/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ S, TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 03/2024/HNGĐ-ST NGÀY 30/01/2024 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG KHI LY HÔN

Ngày 30 tháng 01 năm 2024, tại Trụ sở tòa án nhân dân thị xã S, tỉnh Lào Cai, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 45/2023/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 10 năm 2023 về việc: "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2023/QĐXX-ST ngày 25 tháng 12 năm 2023; Quyết định hoãn phiên tòa số 03/2024/QĐST-HNGĐ ngày 12/01/2024 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Lý Tả M, sinh năm 1986. Nghề nghiệp: Tự do; Dân tộc: Dao.

Nơi cư trú: Đội 2, thôn T, xã T, thị xã S, tỉnh Lào Cai. Vắng mặt. (có đơn xin xét xử vắng mặt)

Bị đơn: Anh Phạm Quang H, sinh năm 1988. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Dân tộc: Dao.

Nơi ĐKHKTT: Đội 2, thôn T, xã T, thị xã S, tỉnh Lào Cai . Vắng mặt. (đã được triệu tập hợp lệ lần thứ 2)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, bản tự khai và trong quá trình tham gia tố tụng, nguyên đơn chị Lý Tả Mẩy trình bày:

Chị Lý Tả M và anh Phạm Quang H kết hôn với nhau ngày 20/10/2008 trên cơ sở tự nguyện yêu thương nhau và làm thủ tục đăng ký kết hôn tại UBND xã Tả Phìn, huyện S (nay là xã T, thị xã S) tỉnh Lào Cai. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc, đến đầu năm 2021 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống và cách nuôi dậy con, từ đó vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi chửi, xúc phạm đến nhau. Khi mâu thuẫn vợ chồng phát sinh, đã được gia đình hai bên và bạn bè động viên, khuyên giải, nhưng tình cảm vợ chồng chị Lý Tả M và anh Phạm Quang H không được cải thiện tốt hơn, mà ngày càng trầm trọng. Hai người đã sống ly thân từ năm 2021, không quan tâm gì đến nhau. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn mục đích hôn nhân không đạt được. Chị M đã khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân thị xã S giải quyết cho chị được ly hôn anh Phạm Quang H.

Về con chung: Quá trình chung sống, anh chị có 02 con chung là cháu Phạm Huyền Thảo M, sinh ngày 18/5/2009 và cháu Phạm Huyền Gia H, sinh ngày 02/02/2020 cả 02 cháu đều khỏe mạnh và phát triển bình thường, hiện đang ở với chị M. Khi ly hôn chị M đề nghị Toà án giải quyết cho chị được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cả hai cháu M và cháu H cho đến khi các cháu trưởng thành đủ 18 tuổi. Về cấp dưỡng nuôi con, chị Mkhông yêu cầu anh H phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Về tài sản chung và công nợ chung: Chị M không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Phạm Quang H: Sau khi thụ lý vụ án, Toà án đã tiến hành tống đạt và niêm yết đầy đủ các văn bản tố tụng của Toà án cho anh H theo đúng quy định của pháp luật, nhưng anh H không có văn bản trả lời và cũng không đến Toà án tự khai, tham gia phiên tiếp cận công khai chứng cứ. Vì vậy Toà án đã đưa vụ án ra xét xử vắng mặt anh Phạm Quang H theo quy định của pháp luật.

Tại đơn đề nghị xét xử vắng mặt chị Lý Tả M giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã S tại phiên tòa: Quá trình giải quyết vụ án các thủ tục tố tụng được tiến hành đầy đủ. Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký tuân thủ đúng các quy định của pháp luật. Việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn đúng quy định pháp luật, quá trình giải quyết vụ án bị đơn không đến tòa án và vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do. Đề nghị hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, các Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình;

khoản 4 Điều 147; Điều 227; Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, giải quyết theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lý Tả M.

Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Lý Tả M được ly hôn anh Phạm Quang H. Về con chung: Giao 02 cháu Phạm Huyền Thảo M và cháu Phạm Huyền Gia H cho chị Lý Tả M trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cho đến khi cháu đủ 18 tuổi.

Tuyên nghĩa vụ chịu án phí và quyền kháng cáo cho các đương sự theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn chị Lý Tả M khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Phạm Quang H và nuôi con chung khi ly hôn, không yêu cầu Tòa án giải quyết về quan hệ tài sản. Hội đồng xét xử xét thấy đây là vụ án tranh chấp hôn nhân gia đình, xác định quan hệ pháp luật là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”. Sau khi thụ lý vụ án Tòa án đã tiến hành tống đạt và niêm yết các văn bản tố tụng theo đúng quy định của pháp luật, anh Phạm Quang H không có văn bản trả lời và cũng không đến Toà án tự khai, tham gia phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải. Do vậy đây là vụ án dân sự không tiến hành hòa giải được theo quy định tại khoản 1 Điều 207 Bộ Luật tố tụng dân sự. Chị Lý Tả M có đơn xin xét xử vắng mặt, anh Phạm Quang H vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do, đã được tòa án triệu tập hợp lệ vì vậy Tòa án xét xử vắng mặt anh Phạm Quang H và chị Lý Tả M theo quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 227; khoản 1, 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Theo các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã xác định:

Anh Phạm Quang H và chị Lý Tả M đăng ký kết hôn ngày 20/10/2008 tại UBND xã T, huyện S (nay là xã Tả P, thị xã S) tỉnh Lào Cai, nên là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Quá trình chung sống thời gian đầu vợ chồng hoà thuận hạnh phúc, đến năm 2021 mâu thuẫn phát sinh. Chị M cho rằng nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng tính tình không hợp, không chung quan điểm sống, từ đó vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi chửi, xúc phạm đến nhau. Mặc dù đã được gia đình hai bên và thôn bản hoà giải, động viên, nhưng tình cảm vợ chồng không được cải thiện tốt hơn mà ngày càng trầm trọng. Qua bản xác minh tại nơi anh Phạm Quang H và chị Lý Tả M sinh sống có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã T, thị xã S, tỉnh Lào Cai, và bản khai của những người làm chứng tại các bút lục số 43, 45, 55 trong hồ sơ vụ án đã thể hiện cuộc sống vợ chồng giữa anh Phạm Quang H và chị Lý Tả M mâu thuẫn thường xuyên xảy ra và ngày càng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được và trên thực tế hai người đã sống ly thân nhau từ năm 2021 đến nay không quan tâm gì đến nhau. Do vậy xét yêu cầu của chị Lý Tả M xin được ly hôn anh Phạm Quang H là có căn cứ, phù hợp theo Điều 51, 56 Luật Hôn nhân gia đình, được chấp nhận.

[3] Về quan hệ con chung: Trong quá trình chung sống có 02 con chung là Phạm Huyền Thảo M và Phạm Huyền Gia H cả 02 cháu đều khỏe mạnh và phát triển bình thường. Hiện hai cháu đang ở cùng chị M. Khi ly hôn chị M đề nghị Toà án giải quyết cho chị được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cả hai cháu Phạm Huyền Thảo M và cháu Phạm Huyền Gia H cho đến khi các cháu trưởng thành đủ 18 tuổi. Về cấp dưỡng nuôi con, chị M không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Thấy rằng chị M có chỗ ở, việc làm và thu nhập ổn định (15 triệu đồng/tháng), còn anh H hiện vắng mặt tại địa phương, không xác định được nơi cư trú. Nên chị M có điều kiện trực tiếp nuôi con tốt hơn, cần chấp nhận yêu cầu của chị M, giao hai cháu Phạm Huyền Thảo M và cháu Phạm Huyền Gia H cho chị Lý Tả M trực tiếp nuôi dưỡng, anh Phạm Quang H không phải cấp dưỡng nuôi con chung, là phù hợp với nguyện vọng của các con và quy định tại các Điều 81,82,83 Luật Hôn nhân và gia đình.

[4] Về quan hệ tài sản: Chị Lý Tả M không yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Chị Lý Tả M phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Khoản 1, Điều 28 ; Điểm a khoản 1 Điều 35 ; Điểm a khoản 1 Điều 39 ; Điểm a, b khoản 2 Điều 227; khoản 1, 3 Điều 228; khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Lý Tả M.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Lý Tả M được ly hôn anh Phạm Quang H.

2. Về con chung: Giao cho chị Lý Tả M được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục hai cháu Phạm Huyền Thảo M, sinh ngày 18/5/2009 và cháu Phạm Huyền Gia H, sinh ngày 02/02/2020 cho đến khi các cháu trưởng thành (đủ 18 tuổi). Anh Phạm Quang H không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

3. Về quan hệ tài sản: Không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Chị Lý Tả M phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo giấy thu tiền tạm ứng án phí số 000000742426 ngày 26/10/2023 của Công ty cổ phần thanh toán quốc gia Việt Nam và biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0005306 ngày 27 tháng 10 năm 2023 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Sa, tỉnh Lào Cai. Xác nhận chị Lý Tả M đã nộp đủ tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn chị Lý Tả M và anh Phạm Quang H được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

24
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung khi ly hôn số 03/2024/HNGĐ-ST

Số hiệu:03/2024/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Sa Pa - Lào Cai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:30/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về