Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con (chồng nghiện ma tuý) số 22/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NINH HẢI, TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 22/2022/HNGĐ-ST NGÀY 05/07/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 05 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số:

72/2022/TLST-HNGĐ ngày 18/3/2022 về việc tranh chấp "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 26/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 26/5/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 22/2022/QĐST- HNGĐ ngày 15/6/2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Thu Ng- sinh năm: 1993 (có mặt). Địa chỉ: Thôn Kh H, xã Tr H, huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Vũ Kh - sinh năm: 1990 (vắng mặt).

Địa chỉ: Thôn T A, xã Tr H, huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn, biên bản lấy lời khai và tại phiên tòa nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thu Ng trình bày:

Bà và ông Nguyễn Vũ Kh tiến đến hôn nhân hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã Tr H, huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 27 ngày 10/4/2018. Vợ chồng có 01 con chung là cháu Nguyễn Vũ Trâm A – sinh ngày 02/02/2014.

Trong cuộc sống vợ chồng xảy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, cuộc sống chung không hạnh phúc, ông Kh nghiện ma túy bà đã khuyên bảo nhiều lần nhưng ông Kh không từ bỏ được ma túy, còn nghi ngờ bà có quan hệ ngoại tình dẫn đến vợ chồng xảy ra cãi vã nhau. Vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 4/2019 đến nay, không còn quan tâm chăm sóc nhau. Vì tình cảm vợ chồng không còn nên bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Kh.

Về con chung: Bà yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng 01 con chung. Không yêu cầu ông Kh cấp dưỡng nuôi con. Bà làm nghề may, thu nhập trung bình 6.000.000 đồng/tháng. Ngoài ra, ông bà ngoại phụ giúp nên bà đủ khả năng nuôi con. Ông Kh hiện nay làm gì, thu nhập bao nhiêu bà không rõ.

Về tài sản chung, nợ chung: Bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn ông Nguyễn Vũ Kh vắng mặt. Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát:

Từ khi thụ lý vụ án đến nay, Thẩm phán, Thư ký, Nguyên đơn đều tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, riêng Bị đơn vắng mặt dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ. Tại phiên tòa hôm nay Hội đồng xét xử đúng thành phần, xét xử đảm bảo đúng quy định của pháp luật.

Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Ng, bà Ng được ly hôn với ông Kh; giao 01 con chung cho bà Ng trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng; ông Kh không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, lời trình bày và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Căn cứ vào đơn khởi kiện và các tài liệu chứng cứ kèm theo, xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ kiện này là “Ly hôn, tranh chấp nuôi con”, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Ninh Hải theo quy định tại các điều 28, 35, 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[1.2] Tại phiên tòa hôm nay, bị đơn tiếp tục vắng mặt không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt Bị đơn.

[2] Về nội dung:

Xét yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn, Hội đồng xét xử thấy rằng: [2.1] Về quan hệ hôn nhân:

Bà Nguyễn Thị Thu Ng và ông Nguyễn Vũ Kh kết hôn là do tự nguyện, có đăng ký kết hôn và được Uỷ ban nhân dân xã Tr H, huyện Ninh Hải cấp giấy chứng nhận kết hôn số 27 ngày 10/4/2018, theo quy định của pháp luật đây là hôn nhân hợp pháp.

Tại phiên tòa bà Ng trình bày: Vợ chồng bà thường xuyên xảy ra mâu thuẫn do ông Kh nghiện ma túy, nghi ngờ bà có quan hệ ngoại tình… Bà và ông Kh đã sống ly thân từ tháng 4 năm 2019 đến nay, không còn quan tâm chăm sóc nhau, mạnh ai nấy sống. Xét thấy: lời trình bày của bà Ng phù hợp với biên bản xác minh ngày 12/5/2022 tại địa phương (BL 34). Hơn nữa dù đã được tống đạt hợp lệ nhưng ông Kh không đến Tòa làm việc, chứng tỏ ông Kh có thái độ bỏ mặc, muốn ra sao thì ra. Hội đồng xét xử thấy rằng tình trạng hôn nhân giữa bà Ng và ông Kh đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Ng.

[2.2] Về con chung: Bà Ng yêu cầu được nuôi 01 con chung. Xét thấy: cháu Nguyễn Vũ Trâm A có nguyện vọng đươc ở với mẹ. Từ nhỏ đến nay cháu ở với mẹ và được mẹ chăm sóc tốt. Bà Ng có công việc, thu nhập ổn định. Ông Kh không có ý kiến gì về việc nuôi con. Do đó, để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cũng như sự phát triển bình thường về thể chất, tinh thần cho con chung, Hội đồng xét xử quyết định giao cháu A cho bà Ng trực tiếp nuôi dưỡng. Ông Kh không phải cấp dưỡng nuôi con chung do bà Ng không yêu cầu.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[3] Từ những phân tích, đánh giá chứng cứ như trên, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; Chấp nhận toàn bộ ý kiến của Kiểm sát viên phát biểu tại phiên tòa.

[4] Về án phí: Bà Ng phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; Khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thu Ng.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Thu Ng được ly hôn với ông Nguyễn Vũ Kh.

2. Về con chung: Bà Nguyễn Thị Thu Ng có quyền và nghĩa vụ trực tiếp nuôi dưỡng 01 con chung là cháu Nguyễn Vũ Trâm A – sinh ngày 02/02/2014. Ông Kh không phải cấp dưỡng nuôi con chung do bà Ng không yêu cầu.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

3. Về án phí: Bà Nguyễn Thị Thu Ng phải chịu 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) theo Biên lai số 0006761 ngày 14/03/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ninh Hải. Bà Ng đã nộp đủ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Án xử công khai, sơ thẩm có mặt nguyên đơn, quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; riêng bị đơn vắng mặt, quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

163
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con (chồng nghiện ma tuý) số 22/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:22/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ninh Hải - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về