Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con, chia tài sản số 23A/2023/HNGĐ-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 23A/2023/HNGĐ-PT NGÀY 22/08/2023 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON, CHIA TÀI SẢN

Trong các ngày 21, 22 tháng 8 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh H xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 17/2023/TLPT-HNGĐ ngày 10 tháng 7 năm 2023 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con chia tài sản khi ly hôn”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 18/2023/HNGĐ-ST ngày 07 tháng 6 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện H bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 19/2023/QĐ-PT ngày 04 tháng 8 năm 2023 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lê Thị T, sinh năm: 1983, có mặt; Nơi ĐKNKTT: Thôn Đ, xã T, huyện T, tỉnh H.

Chỗ ở hiện nay: Thôn V, xã T, huyện T, tỉnh H.

2. Bị đơn: Anh Lê Văn Đ, sinh năm: 1976, có mặt; Trú tại: Thôn Đ, xã T, huyện T, tỉnh H.

3. Người làm chứng:

- Ông Lê Quang T1, sinh năm 1952; Địa chỉ: Thôn Đ, xã T, huyện T, tỉnh H; có mặt.

- Ông Lê Văn K, sinh năm 1960; Địa chỉ: Thôn V, xã T, huyện T, tỉnh H; vắng mặt.

- Bà Nguyễn Thị K1, sinh năm 1962; Địa chỉ: Thôn V, xã T, huyện T, tỉnh H; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Trong đơn khởi kiện đề ngày 01/7/2022, trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn là chị Lê Thị T trình bày:

- Về hôn nhân: Chị và anh Lê Văn Đ kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 12/7/2005 tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh H. Đến đầu năm 2021 vợ chồng bất đồng quan điểm dẫn đến chửi bới xúc phạm nhau, đánh nhau, anh Đ hay đánh đập chị T, tháng 02/2022 vợ chồng ly thân, chị T và cháu Lê Quang Đ1 về bên ngoại ở, nay xét thấy tình cảm không còn chị T đề nghị được ly hôn anh Lê Văn Đ.

- Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Lê Văn Đ2, sinh ngày 10/05/2007 và Lê Quang Đ1, sinh ngày 13/03/2012; Ly hôn nguyện vọng của chị T xin được nuôi cháu Đ1, anh Đ nuôi cháu Đ2, hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản: Chị T khai vợ chồng có tài sản là Quyền sử dụng đất ở tại thửa số 567, tờ bản đồ số 8, diện tích 1030m2 tại Thôn Đ, xã T, huyện T, tỉnh H. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên anh Lê Văn Đ. Hai vợ chồng mua đất của gia đình ông K và bà K1, tuy nhiên ông T1 là bố chồng và anh Đ là người ký mua và giao tiền và đã có thỏa thuận nên đây là tài sản chung vợ chồng. Tài sản trên đất là ngôi nhà hai tầng xây dựng năm 2019. Ly hôn chị T đề nghị Tòa án chia đôi mỗi người một nửa về giá trị, về hiện vật phần chị T đề nghị lấy phần đất trống để làm nhà ở. Tại phiên tòa sơ thẩm chị T đề nghị nếu có căn cứ chứng minh Quyền sử dụng đất là tài sản riêng của anh Đ, thì chị đề nghị Tòa án xem xét trích công sức cho chị trong quá trình chung sống tôn tạo tài sản, trích cho chị khoảng 200m2 đất phần đất chưa làm nhà để chị T lấy nơi ở vì chị không có nơi ở nào khác.

- Về công nợ vợ chồng không nợ nần ai.

* Anh Lê Văn Đ trình bày:

- Về hôn nhân: Về thời gian, điều kiện kết hôn, thời gian ly thân như chị T trình bày trên là đúng. Nay chị T xin ly hôn, anh xét thấy tình cảm không còn nên anh đồng ý ly hôn chị T - Về con chung: Anh Đ đồng ý với chị T về số con chung, người nuôi con và cấp dưỡng nuôi con như đề nghị của chị T.

- Về tài sản: Đất ở tại thửa số 567, tờ bản đồ số 8, diện tích 1030m2 tại Thôn Đ, xã T, huyện T, tỉnh H, hiện tại Tòa án thẩm định là 946.4m2; Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên anh Lê Văn Đ, anh Đ cho rằng đây là tài sản riêng, lý do đất bố mẹ anh Đ mua, anh Đ chỉ đi thăm đất, tiền không giao, anh không ký nhận gì, đất ở này là của bố mẹ cho riêng anh Đ, nên không đồng ý chia cho chị T. Tài sản trên đất là ngôi nhà hai tầng xây dựng năm 2019 và các tài sản trên đất anh Đ đồng ý chia.

Ngoài ra, anh Đ còn kê khai danh sách số tiền còn nợ của một số cá nhân, Ngày 22/9/2022 Tòa án đã ra thông báo nộp tiền tạm ứng án phí cho anh Đ nộp tiền tạm ứng án phí nhưng anh Đ không nộp tiền tạm ứng án phí. Tại phiên họp tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải ngày 16/11/2023 anh Đ không yêu cầu giải quyết về phần nợ. Tại phiên tòa sơ thẩm anh Đ yêu cầu giải quyết phần công nợ của vợ chồng còn nợ một số cá nhân là 318.000.000đ (Ba trăm mười tám triệu đồng).

* Người làm chứng:

- Ông Lê Quang K2 và bà Nguyễn Thị K1 trình bày: Chuyển nhượng khu đất tranh chấp cho ông Lê Quang T1 (Là bố đẻ anh Lê Văn Đ) không chuyển nhượng cho chị T và anh Đ, không nhận tiền đặt cọc chuyển nhượng đất từ anh Đ và chị T.

- Ông Lê Quang T1 (Là bố đẻ anh Lê Văn Đ) trình bày: Thửa đất vợ chồng anh Đ và chị T đang ở là do ông T1 nhận chuyển nhượng từ ông Lê Quang K2 và bà Nguyễn Thị K1, ông tặng cho riêng anh Lê Văn Đ, các giấy tờ thủ tục cấp giấy chứng nhận ký “Lê Văn Đ” là do ông ký, viết, để tiện sang tên anh Đ. Anh Lê Văn Đ và chị Lê Thị T không đóng góp tiền nong gì về việc mua bán đất.

Tại Bản án số 18/2023/HNGĐ-ST ngày 07/6/2023 của Tòa án nhân dân huyện H đã quyết định:

Căn cứ: Điều 33, Điều 40, Điều 43, Khoản 1 Điều 56, các Điều 58, 81, 82, 83 luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 156, điều 157 và khoản 2 Điều 165 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 6, Điều 9, khoản 5 và khoản 7 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Xử:

1. Về hôn nhân: Cho chị Lê Thị T được ly hôn anh Lê Văn Đ.

2. Về con chung: Giao con chung là cháu Lê Văn Đ2 sinh ngày 10/05/2007 cho anh Lê Văn Đ trực tiếp nuôi dưỡng. Giao cháu Lê Quang Đ1, sinh ngày 13/03/2012 cho chị Lê Thị T trực tiếp nuôi dưỡng, chị T và anh Đ không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền đi lại thăm nom con mà không ai được cản trở; Không lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con cái.

3. Về tài sản:

3.1. Trích công sức cho chị Lê Thị T được quyền sử dụng 107,4m2 đất ở trị giá 85.920.000đ (Tám lăm triệu chín trăm hai mươi nghìn đồng) trong khối tài sản riêng của anh Đ, trên đất có 01 Tường rào dài 21m chiều cao trung bình 02m, 01 Tường phía trước nhà giáp đường liên thôn dài 4,5m cao 1,5m.

3.2. Giao anh Lê Văn Đ sử dụng 839m2 đất ở trên đất có 01 nhà 02 tầng xây năm 2019, 01 bình nước nóng T 1000 lít mua năm 2019; 01 Bể nước xây 2019, Bể lọc phía trên bể nước, C ngõ, Cổng sắt hộp, M tôn lạnh trước nhà, S láng xi măng phía trước nhà, T2 phía trước nhà dài 2,1m, T2 dào xung quanh dài 16m, (Có sơ đồ kèm theo) Người được chia quyền sử dụng đất có trách nhiệm đến Cơ quan nhà nước có thẩm quyền để thực hiện việc đăng ký chuyển đổi đất đai, nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của pháp luật.

Văn Phòng Đăng ký đất đai có trách nhiệm thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số seri BD949099, số vào sổ cấp giấy: CH00418/4865/QĐ-UBND ngày 28/12/2010.

3.3. Anh Lê Văn Đ phải trả cho chị Lê Thị T 288.906.500đ (Hai trăm tám mươi tám triệu, chín trăm linh sáu nghìn năm trăm đồng) tiền chênh lệch chia tài sản.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, lệ phí, nghĩa vụ thi hành án và quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.

* Ngày 20/6/2023, bị đơn là anh Lê Văn Đ có đơn kháng cáo đề nghị cấp phúc thẩm xét xử lại bản án sơ thẩm về chia tài sản trên đất vì quá trình làm nhà vợ chồng còn nợ của bố, mẹ và anh em hai bên nội ngoại, sau khi trừ phần nợ đi thì mới chia số tiền còn lại; không đồng ý trích công sức cho chị T được quyền sử dụng 107,4m2 đất.

* Tại phiên tòa phúc thẩm:

+ Nguyên đơn không rút đơn khởi kiện; bị đơn rút một phần nội dung kháng cáo về phần công nợ, anh Đ đồng ý chênh lệch tài sản trên đất cho chị T là 200.000.000 đồng. Chị T không đồng ý, đề nghị anh Đ chênh lệch tổng tài sản cho chị là 300.000.000 đồng. Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án Ý kiến của đại diện VKSND tỉnh H tại phiên tòa: Quá trình giải quyết vụ án cấp phúc thẩm đã tuân theo quy định của BLTTDS. Đề nghị HĐXX căn cứ khoản 1 Điều 308 BLTTDS không chấp nhận kháng cáo của anh Lê Văn Đ.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa, nghe lời trình bày của các đương sự và ý kiến của đại diện VKSND tỉnh H tại phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1].Về tố tụng: Sau khi xét xử sơ thẩm, bị đơn là anh Lê Văn Đ kháng cáo trong thời hạn luật định và nộp tiền tạm ứng án phí nên được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm, anh Đ rút một phần nội dung kháng cáo về phần công nợ nên HĐXX phúc thẩm đình chỉ một phần vụ án. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 289 BLTTDS.

[2]. Xét nội dung kháng cáo của bị đơn:

- Anh Đ3 đồng ý thanh toán cho chị T số tiền 200.000.000 đồng trên tổng giá trị tài sản trên đất là 600.000.000 đồng vì nguồn tiền làm nhà chủ yếu là của anh nên anh phải được hưởng 2 phần, chị T được hưởng 1 phần. Xét thấy chị T kết hôn với anh Đ năm 2005, đến năm 2019 anh chị làm nhà 02 tầng và công trình trên đất với tổng trị giá là 600.000.000 đồng. Anh Đ nại nguồn tiền làm nhà là của anh nhưng anh Đ không có tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho việc nguồn tiền làm nhà là của anh làm nên. Tại cấp phúc thẩm anh Đ không cung cấp thêm tài liệu gì mới. Theo quy định tại Điều 59 Luật hôn nhân gia đình quy định tài sản chung của vợ chồng được chia đôi. Nên cấp sơ thẩm chia đôi tài sản trên đất là có căn cứ.

- Anh Đ không đồng ý trích công sức cho chị T được quyền sử dụng 107,4m2 đất. Thấy rằng, cấp sơ thẩm xác định toàn bộ khu đất ở tại thửa số 567, tờ bản đồ số 8, tại Thôn Đ, xã T, huyện T, tỉnh H, theo kết quả thẩm định có diện tích 946.4m2 là tài sản riêng của anh Đ. Nhận thấy, chị T và anh Đ kết hôn với nhau năm 2005, chị T cùng anh Đ ở trên khu đất này đã gần 18 năm.

Chị T cũng có công sức duy trì tôn tạo, bảo quản cùng anh Đ khu đất trên, hiện tại chị T cũng không có nơi ăn chốn ở nào khác, nên chị T yêu cầu trích công sức cho chị một phần bằng đất để mẹ con chị có chỗ ở. Cấp sơ thẩm đã trích cho chị T 107,4m2 đất ở trong tổng diện tích 946.4m2 tài sản riêng của anh Đ là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 33 và khoản 1 Điều 40 luật Hôn nhân gia đình.

[3]. Về lời tuyên:

Phần quyết định của bản án sơ thẩm tuyên: “Người được chia quyền sử dụng đất có trách nhiệm đến Cơ quan nhà nước có thẩm quyền để thực hiện việc đăng ký chuyển đổi đất đai, nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của pháp luật.

n Phòng Đăng ký đất đai có trách nhiệm thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số se ri BD949099, số vào sổ cấp giấy: CH00418/4865/QĐ-UBND ngày 28/12/2010.” Căn cứ khoản 3 Điều 100; khoản 3 Điều 105 Luật đất đai năm 2013 cần sửa lại lời tuyên trên tại phần quyết định của bản án phúc thẩm như sau: Anh Lê Văn Đ và chị Lê Thị T có trách nhiệm đến cơ quan có thẩm quyền để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quyết định của Bản án.

Ngoài ra, tại phần chia tài sản và nghĩa vụ thi hành án chưa cụ thể, rõ ràng nên cần sửa lại lời tuyên đối với phần này tại phần quyết định của bản án phúc thẩm.

[4]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[5]. Về án phí: Bị đơn là anh Lê Văn Đ kháng cáo không được chấp nhận nên phải chịu án phí dân sự phúc thẩm; căn cứ khoản 1 Điều 148 của BLTTDS. Khoản 1 Điều 29 NQ 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

* Căn cứ vào khoản 1 Điều 308; Điều 309; điểm b khoản 1 Điều 289; khoản 1 Điều 148 Bộ luật tố tụng dân sự. Khoản 1 Điều 29 NQ 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Đình chỉ xét xử phúc thẩm một phần vụ án về phần công nợ.

2. Không chấp nhận kháng cáo của anh Lê Văn Đ. Sửa lời tuyên quyết định Bản án dân sự sơ thẩm số 18/2023/HNGĐ-ST ngày 07 tháng 6 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện H.

Căn cứ: Điều 33; Điều 40; Điều 43; Khoản 1 Điều 56; các Điều 58; 59; 81, 82; 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 156, Điều 157 và khoản 2 Điều 165 Bộ luật tố tụng dân sự. Khoản 3 Điều 100; khoản 3 Điều 105 Luật đất đai năm 2013. Điều 6, Điều 9, khoản 5 và khoản 7 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Xử:

1. Về hôn nhân: Cho chị Lê Thị T được ly hôn anh Lê Văn Đ.

2. Về con chung: Giao con chung là cháu Lê Văn Đ2 sinh ngày 10/05/2007 cho anh Lê Văn Đ trực tiếp nuôi dưỡng. Giao cháu Lê Quang Đ1, sinh ngày 13/03/2012 cho chị Lê Thị T trực tiếp nuôi dưỡng, chị T và anh Đ không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền đi lại thăm nom con mà không ai được cản trở; Không lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con cái.

3. Về tài sản:

3.1. Trích chia công sức cho chị Lê Thị T được quyền sử dụng 107,4m2 đất ở trị giá 85.920.000đ (Tám lăm triệu chín trăm hai mươi nghìn đồng) trong khối tài sản riêng của anh Đ; tại thửa số 567, tờ bản đồ số 8, diện tích tích 946.4m2; địa chỉ: Thôn Đ, xã T, huyện T, tỉnh H. Giao cho chị T 01 tường rào dài 21m, chiều cao trung bình 02m, 01 tường phía trước nhà giáp đường liên thôn dài 4,5m, cao 1,5m trên phần đất chị T được chia.

3.2. Giao anh Lê Văn Đ sử dụng 839m2 đất ở; tại thửa số 567, tờ bản đồ số 8, diện tích tích 946.4m2; địa chỉ: Thôn Đ, xã T, huyện T, tỉnh H. Trên đất có 01 nhà 02 tầng xây năm 2019, 01 bình nước nóng T 1000 lít mua năm 2019; 01 Bể nước xây 2019, Bể lọc phía trên bể nước, C ngõ, Cổng sắt hộp, M tôn lạnh trước nhà, S láng xi măng phía trước nhà, T2 phía trước nhà dài 2,1m, T2 dào xung quanh dài 16m. (Có sơ đồ kèm theo).

Anh Lê Văn Đ và chị Lê Thị T có trách nhiệm đến cơ quan có thẩm quyền để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quyết định của Bản án.

3.3. Anh Lê Văn Đ phải trả cho chị Lê Thị T 288.906.500đ (Hai trăm tám mươi tám triệu, chín trăm linh sáu nghìn năm trăm đồng) tiền chênh lệch chia tài sản.

Kể từ ngày chị Lê Thị T có đơn yêu cầu thi hành án, nếu anh Lê Văn Đ không trả hoặc trả không đủ khoản tiền trên thì hàng tháng anh Đ còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.

3. Về án phí: Anh Lê Văn Đ phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm, nhưng được trừ vào số tiền 300.000 đồng anh Đ đã nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm theo Biên lai thu số 542 ngày 20/6/2023 của Chi cục thi hành án huyện H, tỉnh H.

4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

89
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con, chia tài sản số 23A/2023/HNGĐ-PT

Số hiệu:23A/2023/HNGĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:22/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về