Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con, chia tài sản khi ly hôn số 32/2021/HNGĐ-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH B

BẢN ÁN 32/2021/HNGĐ-PT NGÀY 14/9/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON, CHIA TÀI SẢN KHI LY HÔN

Trong ngày 14/9/2021 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh B xét xử phúc thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 20/2021/TLPT- HNGĐ ngày 16/6/2021 về việc: “Ly hôn, tranh chấp nuôi con, chia tài sản khi ly hôn” Do bản án Hôn nhân gia đình sơ thẩm số 27/2021/HNGĐ-ST ngày 15/4/2021 của Tòa án nhân dân huyện LN, tỉnh B bị kháng cáo. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 24/2021/QĐ-PT ngày 30/7/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 26/2021/QĐ-PT ngày 19/8/2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Lê Văn C, sinh năm 1982 (Có mặt). Địa chỉ: Thôn Bãi Dài Cẩm Hòa, xã Thanh Hải, huyện LN, tỉnh B.

- Bị đơn: Chị Nông Thị H, sinh năm 1983 (Có mặt). Địa chỉ: Thôn Bãi Dài Cẩm Hòa, xã Thanh Hải, huyện LN, tỉnh B.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Lê Văn Đ, sinh năm 1954 (Có mặt).

2. Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1952 (Vắng mặt).

Đều địa chỉ: Thôn Bãi Dài Cẩm Hòa, xã Thanh Hải, huyện LN, tỉnh B.

Địa chỉ: Xã Đồng Sơn, thành phố B, tỉnh B.

Người tham gia tố tụng khác: Trong vụ án còn có người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan khác, không liên quan đến kháng cáo, Tòa án không triệu tập

* Người kháng cáo: bị đơn chị Nông Thị H (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 28/7/2020 và tại bản tự khai, nguyên đơn anh Lê Văn C trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị Nông Thị H kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Nam Dương năm 2002. Sau khi kết hôn chị H về nH anh làm dâu và sống chung cùng gia đình anh, đến năm 2009 thì nảy sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm sống nên nhiều lần xảy ra cãi vã. Nay anh thấy tình cảm không còn, mâu thuẫn đã trầm trọng, đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chị Nông Thị H.

- Về con chung: Vợ chồng anh có 02 con chung là cháu Lê Văn H, sinh ngày 19/01/2006 và Lê Văn L, sinh ngày 26/11/2009. Vợ chồng ly hôn anh nhất trí giao cả hai con chung cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng. Anh có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con với số tiền 1.000.000 đồng /01 con/01 tháng, kể từ khi vợ chồng ly hôn đến khi con chung Đ 18 tuổi.

- Về tài sản chung: Anh xác định vợ chồng anh có tài sản chung gồm:

+ 01 (một) căn nhà cấp IV; 02 (hai) bắn mái; 01 (một) điện thờ trị; 01 (một) xe máy nhãn hiệu HONDA SUPER; 01 bộ bàn ghế.

Nay ly hôn, anh đề nghị Tòa án chia đôi tài sản của vợ chồng, anh đề nghị nhận tài sản và trích chia giá trị tài sản cho chị H

- Về công nợ chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai và các lời khai tiếp theo, bị đơn chị Nông Thị H trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị xác nhận lời trình bày của anh Lê Văn C về thời gian, địa điểm đăng ký kết hôn, quá trình chung sống cũng như nguyên nhân mâu thuẫn là đúng. Anh C xin ly hôn, chị thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn đã trầm trọng, chị nhất trí ly hôn với anh Lê Văn C.

- Về con chung: Vợ chồng chị có 02 con chung là cháu Lê Văn H, sinh ngày 19/01/2006 và Lê Văn L, sinh ngày 26/11/2009. Vợ chồng ly hôn chị đề nghị Tòa án giao cả hai con chung cho chị trực tiếp nuôi dưỡng. Anh C có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con với số tiền 1.000.000 đồng /01 con/01 tháng, kể từ khi vợ chồng ly hôn đến khi các con chung Đ 18 tuổi.

- Về tài sản chung gồm:

+ Quyền sử dụng đất có diện tích là 70m2 đất ở tại thôn Bãi Dài Cẩm Hòa, xã Thanh Hải, huyện LN, tỉnh B. Tài sản trên đất gồm có 01 căn nH cấp IV; 02 bắn mái. 01 điện thờ, 01 ki ốt loại B; 01 khu vệ sinh; 01 bộ bàn ghế; 01 bể nước hết giá trị sử dụng nằm trên đất của ông Lê Văn Đ bà Nguyễn Thị L. 02 xe máy, trong đó 01 xe máy nhãn hiệu HONDA SUPER trị giá; 01 xe máy nhãn hiệu HONDA VISION

+ 01 (một) thửa ruộng có diện tích 1,7 sào tại thôn Bãi Dài Cẩm Hòa, xã Thanh Hải, huyện LN, tỉnh B. Trên thửa đất này vợ chồng chị có trồng được 60 (sáu mươi) cây bưởi.

+ Vợ chồng ly hôn, chị yêu cầu Tòa án chia đôi tài sản chung của vợ chồng, đề nghị anh Lê Văn C phải trích chia giá trị tài sản tương ứng mà chị được hưởng.

+ Về công nợ chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lê Văn Đ bà Nguyễn Thị L trình bày: Nguồn gốc thửa đất 70m2 đất ở tại thôn Bãi Dài Cẩm Hòa, xã Thanh Hải, huyện LN, tỉnh B có nguồn gốc là của ông bà. Ngày 21/9/2006, ông bà làm hợp đồng tặng cho diện tích đất trên cho riêng con trai là anh Lê Văn C. Hợp đồng số 870/06-HĐTC ngày 21/9/2006. Sau khi cho đất anh C và chị H có làm công trình xây dựng trên diện tích đất như anh C chị H trình bầy là đúng Chị H yêu cầu phân chia thửa ruộng có diện tích 1,7 sào tại thôn Bãi Dài Cẩm Hòa, xã Thanh Hải, huyện LN, tỉnh B, ông bà không đồng ý, ông bà xác định đây là tài sản của vợ chồng ông bà, không phải tài sản chung của vợ chồng anh C chị H.

Cháu Lê Văn H, cháu Lê Văn L trình bày: Bố mẹ các cháu ly hôn, các cháu có nguyện vọng được ở với mẹ các cháu.

* Với nội dung nêu trên, bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 27/2021/HNGĐ-ST ngày 15/4/2021 của Tòa án nhân dân huyện LN, tỉnh B đã quyết định:

Căn cứ các Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 148; Điều 227, Điều 271, Điều 273, 280 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015; Điều 29, Điều 33, Điều 37, Điều 38, Điều 51, Điều 53, Điều 55, Điều 59, Điều 62, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình 2014; Điều 7 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT- TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016 hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 6, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Lê Văn C:

1.1. Về quan hệ hôn nhân: Ghi nhận sự thuận tình ly hôn giữa anh Lê Văn C với chị Nông Thị H.

1.2. Về con chung: Giao cho chị Nông Thị H nuôi dưỡng, chăm sóc con chung là Lê Văn H, sinh ngày 19/01/2006 và Lê Văn L, sinh ngày 26/11/2009. Việc cấp dưỡng nuôi con chung không đặt ra xem xét giải quyết. 2. Về tài sản chung: Giao cho anh Lê Văn C tiếp tục sử dụng, sở hữu những tài sản: 01 điện thờ diện tích 21,9m2; 01 nhà cấp IV loại 2 diện tích 54,2m2; 02 bán mái loại 2; 01 ki ốt loại B; 01 khu vệ sinh; 01 bể nước; 01 bộ bàn ghế. Tổng giá trị tài sản là 68.429.000 đồng.

Buộc anh Lê Văn C phải có trách nhiệm thanh toán trả chị Nông Thị H số tiền 34.214.500 đồng - Tiếp tục giao cho anh Lê Văn C sử dụng đối với thửa đất số 2, không ghi số tờ bản đồ (nay là thửa số 5, tờ bản đồ số 59) có diện tích 70m2 đất ở có địa chỉ tại khu Rừng Cả, thôn Bãi Dài (nay là thôn Bãi Dài Cẩm Hòa), xã Thanh Hải, huyện LN, tỉnh B theo Giấy chứng nhận số AE540518 vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H04664 do UBND huyện LN cấp ngày 28/7/2006, đứng tên anh Lê Văn C.

Giao cho chị Nông Thị H được sử dụng chiếc xe máy Dream Biển kiểm soát 34B4 – 351.61.

- Giao cho ông Lê Văn Đ và bà Nguyễn Thị L được quyền sử dụng 60 cây bưởi có trị giá 138.900.000 đồng. Buộc ông Lê Văn Đ và bà Nguyễn Thị L phải trả cho anh Lê Văn C và chị Nông Thị H trị giá tài sản trên đất mỗi người là: 69.450.000 đồng.

Bác yêu cầu của chị Nông Thị H về việc đề nghị chia tài sản đối với thửa đất số 2, không ghi số tờ bản đồ (nay là thửa số 5, tờ bản đồ số 59) có diện tích 70m2 đất ở có địa chỉ tại khu Rừng Cả, thôn Bãi Dài (nay là thôn Bãi Dài Cẩm Hòa), xã Thanh Hải, huyện LN, tỉnh B, đứng tên anh Lê Văn C.

Đình chỉ yêu cầu của chị Nông Thị H về việc chia tài sản là quyền sử dụng số 870 tờ bản đồ số 12 có diện tích 496,7m2 có địa chỉ tại thôn Bãi Dài Cẩm Hòa, xã Thanh Hải, huyện LN, tỉnh B.

Ngoài ra bản án còn tuyên về lãi suất chậm thi hành án, án phí, quyền yêu cầu thi hành án, quyền kháng cáo cho các bên đương sự.

Ngày 29/4/2021 Tòa án nhân dân huyện LN ban hành quyết định số 09/QĐ- SCBSBA về việc cấp dưỡng nuôi con chung: Buộc anh Lê Văn C phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị H số tiền 1.000.000đồng/1con/1 tháng kể từ tháng 5/2019 đến khi con chung Lê Văn H và cháu Lê Văn L trưởng thành Đ 18 tuổi Ngày 29/4/2021 bị đơn là chị Nông Thị H có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm về phần không cấp dưỡng nuôi con chung và phân chia tài sản chung * Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn không rút đơn khởi kiện, bị đơn không rút đơn kháng cáo. Các đương sự không tự thỏa thuận được với nhau về giải quyết vụ án.

* Bị đơn chị Nông Thị H trình bầy tại phiên tòa: Do bản án sơ thẩm có đính chính bổ sung về việc cấp dưỡng nuôi con chung nên về quan hệ hôn nhân và con chung chị không có ý kiến gì, tuy nhiên việc cấp dưỡng từ tháng 5/2019 nếu anh C không đồng ý thì chị đề nghị sửa lại từ tháng 5/2021 Về tài sản: Chị đề nghị chia tài sản là thửa đất số 5, tờ bản đồ số 59 có diện tích 70m2 đất ở có địa chỉ tại khu Rừng Cả, thôn Bãi Dài (nay là thôn Bãi Dài Cẩm Hòa), xã Thanh Hải, huyện LN, tỉnh B lý do: Chị kết hôn với anh C năm 2002, năm 2003 ra ở riêng, khi làm nH trên đất không được cấp giấy phép vì làm trên đất vườn, năm 2006 chị đã nộp tiền chuyển mục đích sử dụng và được cấp giấy chứng nhận mang tên bố mẹ anh C. Khi chuyển mục đích sử dụng chị có đưa tiền cho ông Nguyễn Đức Rồng là cán bộ địa chính để ông Rồng làm các thủ tục kê khai và chuyển mục đích sử dụng đất cho chị. Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét chia cho chị là không đảm bảo quyền lợi của chị. Trường hợp Tòa án không chia cho chị ½ đất, đề nghị tính công sức chị bỏ ra nộp tiền để chuyển mục đích sử dụng. Tiền tài sản trên đất và các tài sản khác chị đồng ý với án sơ thẩm không có ý kiến gì.

* Nguyên đơn anh Lê Văn C trình bầy: Anh đồng ý với bản án sơ thẩm, kháng cáo của chị H anh không đồng ý lý do: tiền bỏ ra chuyển mục đích sử dụng đất là của ông Đ bà L không phải của vợ chồng, Chị H trình bầy chị đưa tiền cho ông Rồng để ông Rồng đi nộp tiền và chuyển mục đích sử dụng là không đúng. Tiền do bố mẹ anh tự làm và chuyển mục đích sử dụng sau đó tặng cho riêng anh. Do vậy anh không đồng ý chia đất và không đồng ý trích chia công sức cho chị H về tiền đất. Anh đồng ý bản án sơ thẩm của Tòa án huyện LN và không còn ý kiến gì khác Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Lê Văn Đ trình bầy: Việc ông bà chuyển mục đích sử dụng từ đất vườn sang đất thổ cư của là tiền của ông bà, chị H. Biên lai nộp tiền là do ông nộp, không phải ông Rồng nộp hộ ông. Chị H đề nghị chia đất và chia công sức ông không đồng ý.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B phát biểu ý kiến:

- Việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án tại cấp phúc thẩm của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã được đảm bảo đúng quy định của pháp luật.

- Về nội dung: Đề nghị HĐXX không chấp nhận kháng cáo của chị H về việc chia tài sản là đất, Không có căn cứ xem xét chia công sức đối với thửa đất trên. Căn cứ khoản 2 Điều 308; Điều 309 sửa bản án sơ thẩm số 27/2021/HNGĐ-ST ngày 15/4/2021 của TAND huyện LN, tỉnh B:

Sửa phần tuyên về tài sản: Giao cho anh Lê Văn C sử dụng, sở hữu những tài sản gắn liền với thửa đất số 2, không ghi số tờ bản đồ, diện tích 70m2 đất ở có địa chỉ tại khu Rừng Cả, thôn Bãi Dài (nay là thôn Bãi Dài Cẩm Hòa), xã Thanh Hải, huyện LN, tỉnh B. Tổng giá trị tài sản là 68.429.000 đồng. Anh Lê Văn C phải trích chia cho chị Nông Thị H 34.214.500đồng.

Sửa phần tuyên về thời gian cấp dưỡng nuôi con chung: Thời gian cấp dưỡng nuôi con chung từ tháng 5/2021 Sửa phần tuyên về án phí: Chị H không phải chịu án phí chia tài sản không được Tòa án chấp nhận là 18.000.000đồng. Chị H anh C chỉ phải chịu án phí tương ứng với giá trị tài sản được hưởng.

Các tài sản khác và nội dung khác của bản án sơ thẩm do đương sự không kháng cáo và không có yêu cầu giải quyết nên đề nghị HĐXX không đặt ra giải quyết.

- Về án phí phúc thẩm, do sửa án sơ thẩm nên chị H không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, căn cứ tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh luận tại phiên tòa, nghe ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, sau khi thảo luận nghị án, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:

[1].Về sự vắng mặt của một số người tham gia tố tụng: Người tham gia tố tụng là bà Nguyễn Thị L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt. HĐXX thấy bà L đã có quan điểm trong hồ sơ vụ án. Do đó sự vắng mặt của bà L không làm ảnh hưởng đến quá trình xét xử vụ án. Căn cứ quy định tại Điều 227- Bộ luật tố tụng dân sự, HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt bà L.

[2]. Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 27/2021/HNGĐ-ST ngày 15/4/2021 của Tòa án nhân dân huyện LN, tỉnh B đã giải quyết về quan hệ hôn nhân: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa anh Lê Văn C với chị Nông Thị H. Nội dung này các đương sự không kháng cáo, Viện kiểm sát không kháng nghị nên HĐXX không xem xét giải quyết.

[3]. Xét nội dung kháng cáo của chị Nông Thị H, HĐXX thấy:

[3.1]. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị H và C có 02 con chung là Lê Văn H và Lê Văn L Tòa sơ thẩm đã giao cho chị H nuôi dưỡng có nhận định anh C phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị H 1.000.000đồng/1 con/1 tháng nhưng phần quyết định không không buộc anh C cấp dưỡng nuôi con chung. Ngày 29/4/2021 Tòa án nhân dân huyện Lục Ngạn ban Hhành Quyết định sửa chữa, bổ sung bản án. Bổ sung nội dung:... Buộc anh Lê Văn C phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị H 1.000.000đồng/1 con/1 tháng kể từ tháng 5/2019 đến khi cháu H và cháu L trưởng thành Đ 18 tuổi.

Tuy nhiên việc đính chính này có sự không chính xác. Tòa án thụ lý ngày 12/10/2020. Bản án sơ thẩm xét xử ngày 15/4/2021. Trong hồ sơ không có sự thỏa thuận nào về việc anh chị thống nhất với nhau, anh C đồng ý cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị H từ tháng 5/2019. Thời điểm này các con chung đang sinh sống chung cùng anh chị do vậy cần sửa lại thời gian cấp dưỡng cụ thể: Thời gian cấp dưỡng từ tháng 5/2021.

[3.2]. Xét kháng cáo của chị Nông Thị H về phần giải quyết phân chia tài sản chung, HĐXX thấy:

Chị H đề nghị chia tài sản là đất ở diện tích 70m2 địa chỉ tại khu Rừng Cả, thôn Bãi Dài (nay là thôn Bãi Dài Cẩm Hòa), xã Thanh Hải, huyện LN, tỉnh B, trường hợp không được chia đất chị đề nghị trích chia cho chị tiền công sức do chị bỏ tiền ra đưa cho ông Nguyễn Đức Rồng cán bộ địa chính để chuyển mục đích sử dụng đất ở từ năm 2006. Hội đồng xét xử thấy theo hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì diện tích đất trên có nguồn gốc của ông Đ bà L, năm 2006 ông bà chuyển mục đích sử dụng từ đất vườn sang đất thổ cư, sau khi chuyển mục đích sử dụng ông bà làm thủ tục tặng cho riêng anh C. Do vậy, việc chị H trình bầy ông Đ bà L cho hai vợ chồng và xác định là tài sản chung vợ chồng và đề nghị được chia là không có căn cứ. Tại phiên tòa chị cũng không đưa ra được tài liệu gì khác để xác định diện tích đất trên là tài sản chung vợ chồng. Do vậy, cấp sơ thẩm không chia đất cho chị là đúng quy định, Đảm bảo quyền lợi cho anh chị theo nguyên tắc phân chia tài sản chung của vợ chồng theo quy định tại Điều 59- Luật Hôn nhân và Gia đình.

Tại phiên tòa chị H vẫn đề nghị Hội đồng xét xử xem xét buộc anh C phải trích chia công sức cho chị tiền chị bỏ ra chuyển mục đích sử dụng đất. Tuy nhiên yêu cầu này của chị chưa được Tòa án cấp sơ thẩm để thụ lý giải quyết do vậy cấp phúc thẩm giải quyết là không đảm bảo hai cấp xét xử. Do vậy khi có căn cứ chị H có quyền đề nghị Tòa án giải quyết bằng vụ án khác nếu chị H có yêu cầu.

[4]. Án sơ thẩm có thiếu xót như sau:

Án sơ thẩm nhận định thửa đất số 2, không ghi số tờ bản đồ (nay là thửa số 5, tờ bản đồ số 59) có diện tích 70m2 đất ở có địa chỉ tại khu Rừng Cả, thôn Bãi Dài (nay là thôn Bãi Dài Cẩm Hòa), xã Thanh Hải, huyện LN, tỉnh B theo Giấy chứng nhận số AE540518 vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H04664 do UBND huyện LN cấp ngày 28/7/2006, đứng tên anh Lê Văn C là tài sản riêng của anh C nhưng phần Quyết định lại tiếp tục giao cho anh C sử dụng là không đúng mà chỉ giao tài sản gắn liền trên đất là tài sản chung vợ chồng cho anh C, anh C trích chia tiền tài sản trên đất cho chị H. Do vậy cấp phúc thẩm cần sửa lại cho phù hợp theo yêu cầu của đương sự cũng như quy định của pháp luật. Tòa án cấp sơ thẩm cần rút kinh nghiệm.

[5]. Về tài sản chung và án phí: Cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu của chị H về việc chia 1/2 đất trị giá 350.000.000đồng và buộc chị H phải chịu án phí 18.000.000đồng là không có căn cứ. Chị H chỉ phải chịu án phí đối với yêu cầu chia tài sản tương ứng với giá trị phần tài sản mà chị H được chia theo quy định tại điểm b, khoản 5, Điều 27- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội. Vậy cần sửa án sơ thẩm về án phí đối với yêu cầu này của chị H.

[6]. Từ những nội dung trên, HĐXX không chấp nhận kháng cáo của chị Nông Thị H. Căn cứ khoản 2, Điều 308; Điều 309 - BLTTDS, sửa 1 phần bản án sơ thẩm về thời gian cấp dưỡng nuôi con chung, phần tuyên và án phí [7]. Về án phí phúc thẩm: Do sửa án sơ thẩm nên chị H không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

[8]. Các nội dung khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị HĐXX không đặt ra xem xét giải quyết.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 2, Điều 308; Điều 309 - Bộ luật Tố tụng dân sự Căn cứ Điều 51, Điều 53, Điều 55, Điều 58, Điều 59, Điều 60, Điều 62, Điều 81, Điều 82, Điều 83- Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 28; Điều 148; Điều 227; khoản 2, Điều 357; khoản 2, Điều 468- Bộ luật Dân sự 2015; Điều 26; khoản 2, Điều 29- Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Xử:

1. Không chấp nhận kháng cáo của chị Nông Thị H về việc đề nghị chia tài sản là thửa đất số 2, không ghi số tờ bản đồ (nay là thửa số 5, tờ bản đồ số 59) có diện tích 70m2 đất ở có địa chỉ tại khu Rừng Cả, thôn Bãi Dài (nay là thôn Bãi Dài Cẩm Hòa), xã Thanh Hải, huyện LN, tỉnh B theo Giấy chứng nhận số AE540518 vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H04664 do UBND huyện LN cấp ngày 28/7/2006, đứng tên anh Lê Văn C.

2. Sửa bản án sơ thẩm số: 27/2021/HNGĐ-ST ngày 15/4/2021 của TAND huyện LN, tỉnh B cụ thể:

2.1. Về thời gian cấp dưỡng nuôi con chung: Giao cho chị Nông Thị H nuôi dưỡng, chăm sóc con chung là Lê Văn H, sinh ngày 19/01/2006 và Lê Văn L, sinh ngày 26/11/2009. Anh Lê Văn C cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị H 1.000.000đồng/1 con/1 tháng kể từ tháng 5/2021 đến khi con chung Lê Văn H, Lê Văn C Đ 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn anh Lê Văn C được quyền đi lại thăm nuôi con chung không ai được ngăn cản anh Lê Văn C thực hiện quyền này.

2.2. Về tài sản:

- Giao cho anh Lê Văn C tiếp tục sử dụng, sở hữu những tài sản gắn liền trên thửa đất số 2, không ghi số tờ bản đồ (nay là thửa số 5, tờ bản đồ số 59) có diện tích 70m2 địa chỉ tại khu Rừng Cả, thôn Bãi Dài (nay là thôn Bãi Dài Cẩm Hòa), xã Thanh Hải, huyện LN, tỉnh B gồm:

01 điện thờ diện tích 21,9m2; 01 nhà cấp IV loại 2 diện tích 54,2m2; 02 bán mái loại 2; 01 ki ốt loại B; 01 khu vệ sinh; 01 bể nước; 01 bộ bàn ghế. Tổng giá trị tài sản là 68.429.000 đồng. Anh Lê Văn C phải trích chia cho Nông Thị H 34.214.500đồng Kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án không chịu thi hành thì Hng tháng còn phải chịu tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2, Điều 468-Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian và số tiền còn phải thi hành.

2.3. Về án phí:

- Án phí sơ thẩm: Anh Lê Văn C phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn và 5.183.000 đồng án phí chia tài sản. Xác nhận anh Lê Văn C đã nộp số tiền 300.000 đồng tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện LN, tỉnh B theo Biên lai thu số: AA/2019/0001604 ngày 12/10/2020.

Chị Nông Thị H phải chịu 5.433.000đồng án phí chia tài sản. Xác nhận chị H đã nộp 6.250.000 đồng tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện LN, tỉnh B theo Biên lai thu số: AA/2019/0001661 ngày 02/11/2020.

- Án phí phúc thẩm: Chị Nông Thị H không phải chịu án phí phúc thẩm, trả lại chị H đã nộp 300.000đồng đã nộp tại biên lai số 0010289 ngày 04/5/2021 của Chi cục THADS huyện LN, tỉnh B.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9-Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30- Luật thi hành án dân sự.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

552
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con, chia tài sản khi ly hôn số 32/2021/HNGĐ-PT

Số hiệu:32/2021/HNGĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:14/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về