Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con, chia tài sản khi ly hôn số 21/2024/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲ HỢP – TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 21/2024/HNGĐ-ST NGÀY 05/02/2024 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON, CHIA TÀI SẢN KHI LY HÔN

Ngày 05 tháng 02 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số:

105/2023/TLST - HNGĐ ngày 31 tháng 10 năm 2023 về việc Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 14/2024/QĐXXST – HNGĐ ngày 18 tháng 01 năm 2024 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Nguyên đơn: Chị Lương Thị H, sinh năm 1985 Nơi cư trú: Xóm R, xã Ch, huyện Q, tỉnh Nghệ An (Có đơn xin xét xử vắng mặt)

Bị đơn: Anh Lò Văn Ng, sinh năm 1986 Nơi cư trú: Xóm R, xã Ch, huyện Q, tỉnh Nghệ An. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn và tại biên bản ghi lời khai, nguyên đơn chị Lương Thị H trình bày: Chị và anh Lò Văn Ng kết hôn vào ngày 10/11/2005, đăng ký hết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Ch, huyện Q, tỉnh Nghệ An. Sau khi kết hôn, anh chị chung sống không hạnh phúc mà thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, bất hòa, nguyên nhân do anh Ng không chịu khó làm ăn, sống không có trách nhiệm gì với gia đình mà thường xuyên uống rượu say và đánh đập chị. Chị và hai bên gia đình khuyên giải nhiều lần để anh Ng tu chí làm ăn nhưng anh Ng vẫn không thay đổi mà lại đánh đập chị thậm tệ hơn. Vợ chồng mâu thuẫn không thể hòa giải nên từ cuối năm 2015 đến nay chị đã về bên ngoại sống ly thân. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, hai bên không thể tiếp tục cuộc sống chung nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị và anh Ng được ly hôn.

Chị H và anh Ng có 02 con chung là Lò Thị Ly N, sinh ngày 29/7/2006 và Lò Nhật Đ, sinh ngày 05/4/2008. Ly hôn, chị H yêu cầu được giao nuôi cả 2 con và không yêu cầu anh Ng phải cấp dưỡng nuôi con.

Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản. Chị H và anh Ng không có khoản nợ chung.

Đối với bị đơn anh Lò Văn Ng, quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án, mặc dù đã nhận được giấy triệu tập, thông báo của Tòa án nhưng anh Ng không có mặt để lấy lời khai, không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và phiên hòa giải. Tại phiên toà lần thứ hai, anh Ng vắng mặt không có lý do, chị Lương Thị H vắng mặt do trở ngại khách quan và có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳ Hợp phát biểu ý kiến:

Qua kiểm sát giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án đến trước khi đưa vụ án ra xét xử và tại phiên tòa thấy rằng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký, nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự. Bị đơn mặc dù được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do.

Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; khoản 4 điều 147, điểm a, b khoản 2 Điều 227, khoản 1, 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, xử: Về hôn nhân: Cho chị H được ly hôn anh Ng; Về con chung: Giao con chung Lò Thị Ly N, sinh ngày 29/7/2006 và Lò Nhật Đ, sinh ngày 05/4/2008 cho chị Lương Thị H trực tiếp nuôi dưỡng. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung đối với anh Ng; Về tài sản chung: Chị H không yêu cầu giải quyết nên đề nghị không xem xét; Về án phí: Chị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi xem xét các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Quan hệ pháp luật được xác định trong vụ án là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn” theo quy định tại khoản 1 điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn anh Lò Văn Ng cư trú tại xóm R, xã Ch, huyện Q, tỉnh Nghệ An nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An theo quy định tại điểm a khoản 1 điều 35, điểm a khoản 1 điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về hôn nhân: Hôn nhân của chị H, anh Ng là hôn nhân hợp pháp, đảm bảo về điều kiện kết hôn và được đăng ký kết hôn đúng quy định. Sau khi kết hôn, chị H, anh Ng sống chung không hạnh phúc mà thường xuyên xảy ra mâu thuẫn và từ cuối năm 2015 đến nay chị H và anh Ng đã sống ly thân. Quá trình giải quyết vụ án chị H một mực xin ly hôn anh Ng. Xét thấy hôn nhân của chị H, anh Ng lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, do đó chấp nhận yêu cầu của chị H, cho chị H được ly hôn anh Ng.

Về con chung: Con chung của chị H, anh Ng là cháu Ly N và Nhật Đ. Từ khi sống ly thân đến nay, các con chung sống cùng chị H, do chị H trực tiếp nuôi dưỡng. Xét thấy chị H có đủ các điều kiện đảm bảo cho việc học tập, giáo dục con phát triển lành mạnh, các con chung cũng có nguyện vọng được sống với mẹ. Do đó, căn cứ quyền lợi mọi mặt của các con chung, chấp nhận yêu cầu của chị H, giao cháu Ly N và cháu Nhật Đ cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung đối với anh Ng.

Về tài sản chung: Chị Lương Thị H không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Đối với anh Lò Văn Ng, quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án, mặc dù nhận được giấy triệu tập, thông báo hợp lệ của Tòa án nhưng anh Ng không có mặt để lấy lời khai, không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và phiên hòa giải. Tại phiên toà, mặc dù đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng anh Ng vắng mặt không có lý do, do đó căn cứ vào khoản 3 điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự để xét xử vụ án vắng mặt anh Ng. Chị Lương Thị H vắng mặt tại phiên tòa do trở ngại khách quan và có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt, nên căn cứ vào khoản 1 điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự để xét xử vụ án vắng mặt đối với chị H.

[4] Về án phí: Chị Lương Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 điều 28, điểm a khoản 1 điều 35, điểm a khoản 1 điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm a, b khoản 2 Điều 227, khoản 1, 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56; Điều 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Lương Thị H được ly hôn anh Lò Văn Ng.

Về con chung: Giao con chung Lò Thị Ly N, sinh ngày 29/7/2006 và Lò Nhật Đ, sinh ngày 05/4/2008 cho chị Lương Thị H trực tiếp nuôi dưỡng kể từ tháng 02/2024 cho đến khi các con chung đủ 18 tuổi, trưởng thành. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung đối với anh Lò Văn Ng. Bên không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

Vì quyền và lợi ích của con chung, hai bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.

Về án phí: Chị Lương Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm 300.000đ (ba trăm nghìn đồng). Số tiền trên được khấu trừ trong số tiền tạm ứng án phí 300.000,đ chị Lương Thị H đã nộp theo biên lai thu số 0006005 ngày 31/10/2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳ Hợp.

Án xử công khai sơ thẩm vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.

Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

9
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con, chia tài sản khi ly hôn số 21/2024/HNGĐ-ST

Số hiệu:21/2024/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳ Hợp - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/02/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về