Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con, chia tài sản khi ly hôn số 06/2024/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẮC HÀ, TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 06/2024/HNGĐ- ST NGÀY 20/03/2024 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON, CHIA TÀI SẢN KHI LY HÔN

Ngày 20 tháng 03 năm 2024. Tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai. Tòa án nhân dân huyện Bắc Hà xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 09/2024/TLST-HNGĐ, ngày 26 tháng 01 năm 2024 về “ Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn”.Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2024/QĐXX- ST, ngày 01 tháng 03 năm 2024 giữa các đương sự:

1.Nguyên đơn: Chị Sùng Thị Ch, sinh năm 1977.

Địa chỉ: Thôn L, xã L, huyện S, tỉnh Lào Cai - Có ý kiến đề nghị xét xử vắng mặt.

2.Bị đơn: Anh Hảng Seo T, sinh năm 1977

Địa chỉ: Thôn Pờ Ch, xã L, huyện B, tỉnh Lào Cai - Có ý kiến đề nghị xét xử vắng mặt .

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ly hôn nhận ngày 26 tháng 01 năm 2024 và Biên bản lấy lời khai có trong hồ sơ vụ án nguyên đơn chị Sùng Thị Ch trình bày: Chị với anh Hảng Seo T về chung sống với nhau từ năm 1999 trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức cưới hỏi theo phong tục tập quán. Nhưng không có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Sau khi cưới anh chị về chung sống với gia đình nhà chồng được một thời gian sau đó ra ở riêng, chị và anh T sống hòa thuận, hạnh phúc được khoảng 20 năm. Đến tháng 9 năm 2019 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, giữa chị và anh T không tìm được tiếng nói chung, anh T nói do chị không sinh được con trai, nên không lấy chị nữa và đã nhiều lần đánh, chửi chị, có lần anh T đã dùng kéo đâm vào đùi chị, vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi, chửi lẫn nhau. Khi chị và anh T xảy ra mâu thuẫn cũng đã được hai gia đình khuyên giải nhiều lần nhưng không có kết quả, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Đầu năm 2020 anh T đi lấy vợ khác, lên chị đã về nhà bố mẹ đẻ ở xã L, huyện S sinh sống từ đó cho đến nay, không ai quan tâm đến ai. Nay xét thấy tình cảm không còn, để đảm bảo cuộc sống sau này của mỗi người chị Chí làm đơn đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly với anh Hảng Seo Tánh.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 26 tháng 01năm 2024 bị đơn anh Hảng Seo T trình bày: Anh hoàn toàn nhất trí về thời gian kết hôn, quá trình chung sống như chị Ch trình bày. Sau khi về chung sống với nhau vợ chồng sống hạnh phúc được gần 20 năm thì đến tháng 9 năm 2019 bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, giữa anh và chị Ch không tìm được tiếng nói chung, trong thời gian chị Ch ở với anh đã có tình cảm với người khác và tự ý bỏ nhà đi về nhà ngoại sống từ đầu năm 2020, anh đã đi đón mấy lần nhưng chị Ch không về. Do chị Ch bỏ nhà đi và bảo cho anh đi lấy người khác, lên anh đã đi lấy vợ khác tên là Ly Thị D. Anh và chị Ch đã sống ly thân từ đầu năm 2020 cho đến nay, không ai quan tâm đến ai. Nay chị Ch làm đơn xin ly hôn, anh nhất trí ly hôn.

Về con chung: Chị Chí và anh T thừa nhận, trong thời gian chung sống giữa chị và anh Tánh có 01 con chung. Cháu tên là Hảng Thị C, sinh ngày 8 tháng 7 năm 2007. Hiện nay cháu C đang sống cùng với anh T.

Nguyên đơn chị Ch có ý kiến khi ly hôn chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được nuôi dưỡng cháu C, cho đến khi cháu đủ 18 tuổi, chị không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung.

Bị đơn anh Hảng Seo T có ý kiến: Anh đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được nuôi cháu C, cho đến khi cháu đủ 18 tuổi, anh không yêu cầu chị Ch phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Tại phiên tòa hôm nay:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Hà phát biểu về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án. Đề nghị Hội đồng xét xử xử:

+ Về hôn nhân: Căn cứ vào khoản 1 Điều 14; Điều 53 của Luật Hôn nhân và Gia đình: Tuyên bố không công nhận mối quan hệ giữa chị Sùng Thị Ch và anh Hảng Seo T là quan hệ vợ chồng.

+ Về con chung: Căn cứ Điều 81, 82 và 83 của Luật hôn nhân và gia đình:

Giao cho Anh Hảng Seo T được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu Hảng Thị C, sinh ngày 8 tháng 7 năm 2007, cho đến khi cháu C đủ 18 tuổi. Chị Ch không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Về án phí và quyền kháng cáo được thực hiện theo quy định của pháp luật.

Nguyên đơn chị Ch và bị đơn anh T vắng mặt tại phiên tòa nhưng vẫn giữ nguyên quan điểm như đã đề nghị.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1]. Về tố tụng: Chị Ch khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai giải quyết cho chị được ly hôn với anh Hảng Seo T, giải quyết về tranh chấp nuôi con chung khi ly hôn. Anh T có hộ khẩu thường trú tại thôn P, xã L, huyện B, tỉnh Lào Cai. Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình về “ Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn”.

Tại phiên tòa hôm nay chị Sùng Thị Ch và án Hảng Seo T đều có ý kiến đề nghị xét xử vắng mặt, nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn theo khoản 1 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Sùng Thị Ch và anh Hảng Seo T về chung sống với nhau từ năm 1999, có tổ chức cưới hỏi theo phong tục tập quán, được gia đình hai bên đồng ý, nhưng không có đăng ký kết hôn. Trong quá trình chung sống giữa chị Ch và anh T đã xảy ra nhiều mâu thuẫn, cuộc sống chung không thể kéo dài được, Từ năm 2020 cho đến nay chị Ch không sống cùng với anh T nữa, hiện tại anh T và chị Ch đều đã có cuộc sống riêng của mỗi người. Ngày 26/01/2024 chị Chí nộp đơn khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh T. Xét thấy, việc chị Ch và anh T chung sống với nhau như vợ chồng là hoàn toàn tự nguyện, có thời gian chung sống với nhau đến nay đã được hơn 20 năm, nhưng không có đăng ký kết hôn là vi phạm Luật Hôn nhân và Gia đình. Nên Hội đồng xét xử xem xét giải quyết, áp dụng khoản 1 Điều 14; Điều 53 luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 tuyên bố quan hệ giữa chị Sùng Thị Ch và anh Anh Hảng Seo T không phải là vợ chồng.

[3]. Về nuôi con khi ly hôn: Cả hai anh chị đều thừa nhận có 01 con chung. Cháu tên là Hảng Thị C, sinh ngày 8 tháng 7 năm 2007. Hiện nay cháu đáng sống cùng với anh T.

Quá trình giải quyết vụ án Tòa án tiến hành hỏi ý kiến của cháu C thì cháu có nguyện vọng xin được sống cùng với anh T.

Hội đồng xét xử xét thấy: Đối với cháu Hảng Thị C có nguyện vọng muốn được sống cùng với anh T. Chị Ch và và anh T đều làm nghề tự do, có mức thu nhập ổn định, cả hai anh chị đều có điều kiện để nuôi dạy con trưởng thành và đảm bảo cho sự phát triển của cháu C. Tại Biên bản hòa giải về quan hệ nuôi con khi ly hôn ngày 28/02/2024. Chị Ch và anh T đã thỏa thuận để anh Hảng Seo T được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu Hảng Thị C, sinh ngày 8 tháng 7 năm 2007, cho đến khi cháu C đủ 18 tuổi. Chị Ch không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Tại phiên tòa hôm nay, chị Chí và anh T đều vắng mặt. Hội đồng xét xử xem xét, chấp nhận đề nghị của chị Ch và tôn trọng sự thỏa thuận giữa chị Ch và anh T theo biên bản hòa giải về nuôi con khi ly hôn. Xét thấy, việc thoả thuận của chị Ch và anh T là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với nguyện vọng của các bên và đúng theo qui định tại Điều 81,82 và 83 của Luật hôn nhân và gia đình. Nên cần giao cháu C cho anh T nuôi dưỡng.

[4]. Về tài sản chung: Ngày 29 tháng 01 năm 2024 chị Sùng Thị Ch và anh Hảng Seo T đã thỏa thuận với nhau về việc chia tài sản chung. Chị Ch đã rút phần yêu cầu khởi kiện về phần chia tài sản chung. Tòa án căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 217 của Bộ luật tố tụng dân sự đã đình chỉ phần yêu cầu chia tài sản chung khi ly hôn. Hiện tại, chị Ch và anh T đều không đề nghị Toà án giải quyết về phần chia tài sản chung. Nên, Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[5]. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Sùng Thị Ch phải chịu tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thâm theo quy đinh cua phap luât.

[6]. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 14; Điều 53; Điều 81; Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình. Khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH 14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án xử:

1.Về quan hệ hôn nhân: Tuyên bố không công nhận mối quan hệ giữa chị Sùng Thị Ch và anh Hảng Seo T là quan hệ vợ chồng.

2.Về nuôi con khi ly hôn: Giao cho anh Hảng Seo Ttrực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng cháu Hảng Thị C, sinh ngày 8 tháng 7 năm 2007, cho đến khi cháu C đủ 18 tuổi. Chị Sùng Thị Ch không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con; mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Sùng Thị Ch phải chịu 300.000 đông (Ba trăm nghin đông ) tiền an phi Hôn nhân gia đình sơ thâm . Nhưng đươc trư vao sô tiê n tam ưng an phi dân sư sơ thâm đa nôp la 300.000 đông theo biên lai sô 0001328, ngày 26 tháng 01 năm 2024 của Chi cục thi hành á n dân sư huyện Bắc Hà . Chị Ch đã nộp đủ tiền án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm. Chị Ch và anh T vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

77
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con, chia tài sản khi ly hôn số 06/2024/HNGĐ-ST

Số hiệu:06/2024/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bắc Hà - Lào Cai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về