Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con, chia tài sản chung và nợ chung khi ly hôn số 59/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẾN TRE, TỈNH BN TRE

BẢN ÁN 59/2022/HNGĐ-ST NGÀY 18/08/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON, CHIA TÀI SẢN CHUNG VÀ NỢ CHUNG KHI LY HÔN

Ngày 17 tháng 8 năm 2022 và ngày 18 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 131/2022/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 4 năm 2022 về việc "Ly hôn, tranh chấp nuôi con, chia tài sản chung và nợ chung khi ly hôn" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 55/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 19 tháng 7 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 137/2022/QĐST-HNGĐ ngày 10 tháng 8 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Trần Quốc K, sinh năm 1988;

Địa chỉ: số C khu phố B, phường B, thành phố B, tỉnh Bến Tre.

- Bị đơn: Bà Nguyễn Lâm Thảo T, sinh năm 1989;

Địa chỉ: ấp B, xã P, thành phố B, tỉnh Bến Tre.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Ông Trần Nhật Long H - Luật sư Văn phòng Luật sư A thuộc Đoàn luật sư tỉnh Bến Tre.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Lâm Thị H, sinh năm 1960; Địa chỉ: ấp B, xã P, thành phố B, tỉnh Bến Tre.

(Ông K, bà T, ông H có mặt; bà H vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện 06/4/2022, bản tự khai cùng các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, nguyên đơn ông Trần Quốc K trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: ông Trần Quốc K và bà Nguyễn Lâm Thảo T đăng ký kết hôn năm 2015 tại Ủy ban nhân dân phường B, thành phố B, tỉnh Bến Tre. Hôn nhân do tự nguyện tìm hiểu. Sau khi kết hôn, vợ chồng sinh sống tại nhà mẹ vợ, địa chỉ: ấp B, xã P, thành phố B, tỉnh Bến Tre. Quá trình chung sống, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng thường xuyên cãi nhau. Ông K đã nhiều lần hàn gắn tình cảm nhưng không đạt được, mâu thuẫn trầm trọng hơn, không thể chung sống và hòa hợp trở lại. Vợ chồng đã ly thân từ đầu năm 2022 đến nay. Nay, ông K xác định không còn tình cảm với bà T nên yêu cầu ly hôn.

Về con chung: vợ chồng có 01 con chung tên Trần Lâm Bảo c, sinh ngày 30/7/2015. Hiện nay con chung đang sống chung với bà T. Sau khi ly hôn, ông K yêu cầu để con chung cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng, ông đồng ý cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng với số tiền 2 triệu đồng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Về tài sản chung: không có. Về nợ chung: không có.

Theo bản tự khai, biên bản lấy lời khai cùng các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án, bị đơn bà Nguyễn Lâm Thảo T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: bà thống nhất với lời trình bày của ông K về quan hệ hôn nhân, con chung. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc. Tuy nhiên, vào tháng 4/2022 mẹ bà là bà Lâm Thị H bị bệnh nặng phải nhập viện, công việc ở nhà giao cho ông K quản lý, đồng thời bà H có chuyển vào tài khoản ông K mở tại Ngân hàng TMCP B, Chi nhánh B với số tiền khoản 1,9 tỷ đồng để xoay sở công chuyện trong gia đình, sau khi nhận được tiền chuyển khoản thì đêm ngày 11/4/2022 ông K dọn đồ ra khỏi nhà bà. Vợ chồng đã ly thân từ ngày 12/4/2022 đến nay. Nay, bà xác định không còn tình cảm với ông K nên bà đồng ý ly hôn với ông K.

Về con chung: hiện nay cháu C đang sống chung với bà. Sau khi ly hôn, bà yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng con chung, bà đồng ý ông K cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng với số tiền 2 triệu đồng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Mặc khác, bà yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom của ông K đối với cháu C, bà chỉ cho ông K mỗi năm thăm cháu C một lần vào ngày 01/01 hàng năm. Lý do bà yêu cầu hạn chế quyền thăm nom: ngày 7/5/2022, ông K tự ý đến đón con tại trường tiểu học Phú Nhuận, bà chạy lên đón thì không thấy cháu C. Lúc này, bà có gọi cho ông K thì ông K không nghe máy, bà có gọi về nhà thì nhà trả lời cháu C chưa về. Cháu C tan học lúc 10 giờ 50, bà lại trường rước cháu lúc 11 giờ thì không thấy cháu. Đến khoảng 11 giờ 15 phút khi bà về tới nhà thì cháu C đã có mặt ở nhà. Cháu C nói cháu tự đi bộ về. Bà xem lại camera nhà thì bà thấy ông K đưa cháu C về. Sau đó, cháu C tâm sự với bà như sau: cháu hỏi tại sao ba ăn cắp tiền của ngoại, ông K nói lấy tiền để nuôi con. Theo bà, ông K dạy cháu nói dối, không đúng sự thật, cụ thể: cháu C do ông K đưa về nhưng ông K lại dạy cháu C nói dối là đi bộ về, ông K mấy tháng nay không có phụ tiền nuôi cháu C nhưng lại nói lấy tiền nuôi cháu C. Do đó, bà yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con đối với ông K. Về tài sản chung:

- Vợ chồng có tài sản chung là số tiền 280 triệu đồng: nguồn gốc số tiền này là do mẹ bà là bà Lâm Thị H cho vợ chồng hàng tháng, mỗi tháng trung bình bà H cho vợ chồng 10 triệu đồng (có khi cho nhiều hơn, có khi ít hơn). Bà H cho vợ chồng bằng tiền mặt, có lúc ông K giữ, có lúc bà giữ, tháng nào không xài tới thì đưa bà H giữ dùm. Tóm lại, tiền có dư của vợ chồng thì gửi bà H giữ dùm. Trong thời gian bà H bệnh, phải phẫu thuật tại Thành phố Hồ Chí Minh, bà H chuyển khoản cho ông K số tiền 1,9 tỷ đồng (trong đó có 280 triệu đồng của vợ chồng) nhờ xoay sở công việc trong gia đình; ông K lấy đi 980 triệu đồng (trong đó có 700 triệu đồng của bà H và 280 triệu đồng là tài sản chung của vợ chồng), sau đó ông K nhờ người khác trả cho gia đình bà số tiền 446 triệu đồng. Để chứng minh cho yêu cầu nêu trên, vào ngày 09/6/2022 bà có cung cấp cho Tòa án một tờ giấy do ông K viết. Nay bà yêu cầu chia đôi số tiền 280 triệu đồng, bà yêu cầu được nhận số tiền 140 triệu đồng.

- Vợ chồng có tài sản chung là xe Hoa Lâm trị giá 80 triệu đồng: vào năm 2018, bà có đưa cho ông K số tiền 20 triệu đồng để mua chiếc xe Hoa Lâm, năm 2019 ông K mua thêm 01 chiếc xe Hoa Lâm nữa. Đến năm 2020, ông K bán 02 chiếc xe trước đó và mua chiếc mới (chiếc này trị giá 80 triệu đồng mà bà đang tranh chấp). Ông K mua để chở hàng cho gia đình, biển kiểm soát xe số mấy bà không nhớ. Do chiếc xe này hình thành trong thời kỳ hôn nhân của vợ chồng nên bà yêu cầu chia đôi chiếc xe này, bà yêu cầu nhận tiền 40 triệu đồng, ông K nhận xe.

Về nợ chung: bà có kinh doanh riêng (kinh doanh chứng khoán), do tình hình dịch bệnh kéo dài nên bà bị thua lỗ dẫn đến bà vay của bà H số tiền 1,5 tỷ đồng vào tháng 2/2022 để trả nợ, khi vay tiền các bên không có làm biên nhận do mẹ con trong nhà. Bà kinh doanh chứng khoán trước khi bà có chồng, tuy nhiên sau khi có chồng, tất các các chi phí sinh hoạt, đi chơi, chăm sóc con cái, gia đình chồng cần gì thì bà đều lấy tiền lãi trong kinh doanh chứng khoán để chi tiêu. Đối với số nợ chung này thì bà yêu cầu bà và ông K mỗi người có nghĩa vụ trả cho bà H số tiền 750 triệu đồng.

Theo bản tự khai, biên bản lấy lời khai cùng các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Lâm Thị H trình bày:

Nguyễn Lâm Thảo T là con ruột của bà. Khi T chơi chứng khoán bị thua lỗ, T mượn của số tiền 1,5 tỷ đồng để trả nợ kinh doanh chứng khoán. Khi đưa tiền cho T và K thì các bên không có làm biên nhận. Xét thấy, phía ông K không thừa nhận số nợ 1,5 tỷ đồng, tạm thời bà chưa cung cấp được chứng cứ chứng minh nên đối với yêu cầu K và T trả số tiền 1,5 tỷ đồng thì bà xin rút lại, bà sẽ khởi kiện bằng một vụ án khác. Đây là ý chí tự nguyện của bà, đề nghị Tòa án chấp nhận.

Đối với số tiền 280 triệu đồng: mỗi tháng bà cho K và T số tiền từ 20 đến 30 triệu đồng để K và T có tài sản để tiết kiệm. Bà cho tiền mặt, khi cho các bên không có làm giấy tờ. Tổng số tiền bà cho K và T là 280 triệu đồng tiền mặt. số tiền 280 triệu đồng này K và T nhờ bà giữ dùm. Vào tháng 4/2022, bà bị bệnh phải phẫu thuật tại Thành phố Hồ Chí Minh, T đi theo chăm sóc bà, lúc này nợ ngân hàng tới hạn, bà chuyển cho K số tiền 1,9 tỷ đồng để Kỳ đáo hạn ngân hàng dùm nhưng bà không ngờ sau đó Kỳ lại lấy 980 triệu đồng trong 1,9 tỷ đồng này. Chứng cứ chứng minh cho lời trình bày của bà là K ghi vô tờ giấy do T nộp cho Tòa án vào ngày 09/6/2022. Đây là tài sản chung của K và T thì để K và T tự giải quyết, bà không có yêu cầu gì đối với số 280 triệu đồng.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

Ông Trần Quốc K trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: sau khi kết hôn thì vợ chồng phụ làm cho gia đình vợ, cụ thể là làm cho Công ty TNHH sản xuất kinh doanh thạch dừa X do mẹ vợ là bà Lâm Thị H làm chủ, sinh hoạt hàng ngày của vợ chồng cũng như con cái do bà H chi tiền. Hàng tháng, bà H trả tiền lương cho vợ chồng, tuy nhiên người nhận tiền là bà T chứ không phải ông. Đến năm 2017, ông mua được xe Hoa Lâm, lúc đó ông mới có thu nhập riêng. Quá trình chung sống, ông phát hiện bà T chơi chứng khoán, ông không đồng ý việc này mặc dù ông đã khuyên bà T nhiều lần. Từ các lý do nêu trên, dẫn đến vợ chồng thường cãi nhau về vấn đề tiền bạc, mâu thuẫn trong việc phát triển kinh tế chung gia đình. Vợ chồng đã ly thân từ ngày 12/4/2022 đến nay. Trong thời gian ly thân, vợ chồng mạnh ai nấy sống. Nay, ông xác định không còn tình cảm với bà T nên ông yêu cầu ly hôn với bà T.

Về con chung: ông đồng ý để cháu C cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng, ông đồng ý cấp dưỡng nuôi con hàng tháng với số tiền 2 triệu đồng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Ông không đồng ý yêu cầu của bà T về việc hạn chế quyền thăm nom con.

Về tài sản chung: ông thừa nhận vào ngày 04/4/2022 ông có nhận chuyển khoản của bà Lâm Thị H số tiền 1.910.000.000 đồng, bà H bị bệnh nên đã chuyển khoản cho ông để xoay sở công việc trong gia đình, cụ thể như: trả lương công nhân, trả tiền mua nguyên vật liệu làm thạch dừa... Tổng số tiền ông đã dùng cho mục đích nêu trên là 484 triệu đồng, số tiền còn lại 1.426.000.000 đồng. Theo ông, phần tiền còn lại 1.426.000.000 đồng là tài sản của ông vì phần tiền này có nguồn gốc là ông mượn anh chị em bên gia đình ông để phụ kinh doanh dừa bên nhà vợ nên nay ông lấy lại của bà H số tiền 1.426.000.000 đồng là phù hợp. Sau đó, ông đưa lại bà H số tiền 446 triệu đồng để lo cho cháu C ăn học trong vòng 18 năm, ông còn giữ lại số tiền 980 triệu đồng. Vào ngày 08/4/2022, ông đã rút ra số tiền 980 triệu đồng để trả nợ cho những người mà ông đã mượn trước đó, khi trả nợ ông trả bằng tiền mặt, không có làm giấy tờ. Đối với xe Hoa Lâm cũng là tài sản của riêng ông. Tóm lại, giữa ông và bà T không có tài sản chung. Tại phiên tòa, bà T tự nguyện rút yêu cầu chia tài sản chung đối với số tiền 280 triệu đồng và xe Hoa Lâm thì ông không có ý kiến.

Về nợ chung: bà T trình bày vợ chồng có nợ bà Lâm Thị H số tiền 1,5 tỷ đồng là không đúng. Ông khẳng định giữa ông và bà T không có nợ chung.

Bà Nguyễn Lâm Thảo T cũng như người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: sau khi kết hôn thì vợ chồng phụ làm cho gia đình bà, cụ thể là làm cho Công ty TNHH sản xuất kinh doanh thạch dừa X do mẹ bà là bà Lâm Thị H làm chủ. Từ năm 2015 đến năm 2017 thì bà H gửi tiền lương của vợ chồng cho ông K giữ, từ năm 2017 đến tháng 4/2022 thì bà H gửi tiền lương vợ chồng cho bà giữ vì ông K có xe Hoa Lâm nên có thu nhập riêng. Mọi sinh hoạt trong gia đình do bà chịu trách nhiệm chi, còn ông K thì lo cho bên nhà ông K. Từ năm 2015 đến tháng 4/2022, vợ chồng vẫn chung sống bình thường, bà không hiểu lý do vì sao mà ông K nộp đơn ly hôn bà. Theo bà, có thể do ông K lấy của mẹ bà số tiền 980 triệu đồng nên mới yêu cầu ly hôn bà. Quá trình giải quyết vụ án do tức giận nên bà trình bày đồng ý ly hôn với ông K. Tuy nhiên, tại phiên tòa bà nhận thấy con chung còn nhỏ và bà còn tình cảm với ông K nên bà không đồng ý ly hôn.

Trường hợp Tòa án chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông K thì bà T đề nghị Tòa án giải quyết các vấn đề sau đây:

Về con chung: bà T yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi con, bà T yêu cầu ông K cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng với số tiền 2 triệu đồng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Bà T giữ nguyên yêu cầu hạn chế quyền thăm nom con đối với ông K.

Về tài sản chung: đối với yêu cầu chia tài sản chung là số tiền 280 triệu đồng và xe Hoa Lâm thì bà T tự nguyện rút lại, nếu sau này các bên có tranh chấp thì sẽ khởi kiện bằng vụ án khác.

Về nợ chung: do bà H bà rút lại yêu cầu nợ chung nên nay bà cũng rút lại yêu cầu bà và ông K mỗi người có nghĩa vụ trả cho bà H số tiền 750 triệu đồng.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án và tại phiên tòa xét xử đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục được pháp luật quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự. Người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự.

Ý kiến về việc giải quyết vụ án: áp dụng các điều 55, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; các điều 5, 147, 227, 228, 266, 271 và khoản 1 điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016, đề nghị tuyên xử:

- Về quan hệ hôn nhân: ông K được ly hôn với bà T.

- Về con chung: giao cho bà T trực tiếp nuôi con, ghi nhận ông K cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng với số tiền 2 triệu đồng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Không chấp nhận yêu cầu hạn chế quyền thăm nom con của bà T đối với ông K.

- Về tài sản chung: tại phiên tòa bà T tự nguyện rút yêu cầu chia tài sản chung, đề nghị Tòa án đình chỉ yêu cầu chia tài sản chung của bà T.

- Về nợ chung: ông K khai không có nợ chung, bà T và bà H không có yêu cầu giải quyết đối với số tiền 1,5 tỷ đồng nên không xem xét.

- Về án phí: các đương sự phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào lời trình bày của các đương sự và phát biểu ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

Về tố tụng:

[1] Về quan hệ pháp luật: căn cứ vào đơn khởi kiện của ông Trần Quốc K, đơn yêu cầu hạn chế quyền thăm nom con, chia tài sản chung của bà Nguyễn Lâm Thảo T cùng các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử xác định đây là vụ án hôn nhân và gia đình về việc ly hôn, tranh chấp nuôi con, chia tài sản chung và nợ chung khi ly hôn.

[2] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: việc ly hôn, tranh chấp nuôi con, chia tài sản chung và nợ chung khi ly hôn là loại việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự. Căn cứ khoản 3 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án không có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài, vì vậy vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện. Bị đơn bà Nguyễn Lâm Thảo T có nơi cư trú tại xã P, thành phố B, tỉnh Bến Tre. Đối chiếu điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre có thẩm quyền giải quyền giải quyết vụ án.

[3] Về việc tham gia phiên tòa của đương sự: bà Lâm Thị H có đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt. Căn cứ Điều 227 và Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà H là phù hợp.

Về nội dung:

[4] Về quan hệ hôn nhân: vào năm 2015, ông K và bà T tiến hành đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường B, thành phố B. Việc đăng ký kết hôn giữa ông K và bà T là hoàn toàn tự nguyện, không bên nào bị ép buộc, đã tuân thủ đúng theo quy định tại Điều 8 và Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình nên được xem là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Tại phiên tòa, ông K yêu cầu ly hôn với bà T nhưng bà T không đồng ý. Hội đồng xét xử xét thấy: quá trình giải quyết vụ án, ông K và bà T trình bày hiện nay vợ chồng chung sống không hạnh phúc, không còn quan tâm, yêu thương, chăm sóc lẫn nhau. Theo bản tự khai, biên bản hòa giải ngày 05/5/2022 (BL31-33), ngày 23/6/2022 (BL59-62) và ngày 19/7/2022 (BL 85-89) thì ông K và bà T đều đề nghị Tòa án công nhận thuận tình ly hôn. Tại phiên tòa, ông K trình bày vợ chồng có mâu thuẫn về kinh tế, cụ thể tiền làm ra mạnh ai nấy xài, vợ chồng hay cãi nhau về vấn đề tiền bạc, lời trình bày này cũng phù hợp với lời khai của bà T tại phiên tòa. Đồng thời, bà T thừa nhận vợ chồng đã ly thân từ ngày 12/4/2022 đến nay, nguyên nhân dẫn đến vợ chồng ly thân cũng liên quan đến vấn đề tiền bạc. Từ các cơ sở trên, xét thấy giữa ông K và bà T có phát sinh mâu thuẫn về kinh tế, ông K và bà T đã có thời gian ly thân nhưng hàn gắn tình cảm không thành. Căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình, xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa ông K và bà T đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông K là phù hợp.

[5] Về con chung: ông K và bà T khai vợ chồng có với nhau 01 con chung tên Trần Lâm Bảo C, sinh ngày 30/7/2015. Hiện nay, cháu C đang sinh sống chung với bà T, ông K và bà T thống nhất để cháu C cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng. Xét điều kiện thực tế và sự thỏa thuận của các đương sự, cần chấp nhận giao cháu C cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp. Ghi nhận ông K tự nguyện cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng với số tiền 2 triệu đồng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.

Khoản 3 Điều 82 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 quy định: “Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó”. Bà T yêu cầu hạn chế quyền thăm nom con đối với ông K, bà cho ông K mỗi năm thăm con một lần vào ngày 01/01 hàng năm. Tuy nhiên, bà T không cung cấp chứng minh ông K có những hành vi không đúng ảnh hưởng đến việc chăm sóc, giáo dục con chung. Do đó, việc bà T yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của ông K là không có căn cứ nên không được chấp nhận.

[6] Về tài sản chung: tại phiên tòa, ông K thừa nhận vào ngày 04/4/2022 bà H đã chuyển vào tài khoản của ông tại Ngân hàng TMCP B Chi nhánh B số tiền 1.910.000.000 đồng, trừ đi số tiền 484 triệu đồng ông đã sử dụng để xoay sở trong việc kinh doanh thạch dừa của gia đình bà H và 446 triệu đồng ông gửi lại bà H để lo cho con chung thì ông còn giữ lại số tiền 980 triệu. Theo ông K, số tiền 980 triệu đồng cũng như xe Hoa Lâm là tài sản riêng của ông, đo đó ông không đồng ý yêu cầu chia tài sản chung của bà T. Mặc khác, tại phiên tòa bà T tự nguyện rút yêu cầu chia tài sản chung đối với số tiền 280 triệu đồng và xe Hoa Lâm trị giá 80 triệu đồng. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử đình chỉ yêu cầu chia tài sản chung của bà T; nếu sau này có tranh chấp, bà T được quyền khởi kiện lại theo quy định của pháp luật.

[7] Về nợ chung: tại phiên tòa, ông K trình bày không có nợ chung; bà H cho rằng ông K và bà T có vay của bà H số tiền 1,5 tỷ đồng, tuy nhiên bà H trình bày hiện nay bà H chưa cung cấp đầy đủ chứng cứ nên bà không yêu cầu Tòa án giải quyết số tiền 1,5 tỷ đồng trong vụ án này, nếu sau này có điều kiện bà sẽ khởi kiện bằng một vụ án khác (BL88); còn bà T trình bày vợ chồng có nợ bà H số tiền 1,5 tỷ đồng tuy nhiên bà không yêu cầu giải quyết số nợ chung trong vụ án này. Đối chiếu Điều 5 Bộ luật Tố tụng dân sự, xét thấy bà T và bà H đều không có yêu cầu giải quyết đối với số tiền 1,5 tỷ đồng nên Hội đồng xét xử không xem xét. Trường hợp sau này có tranh chấp thì bà H được quyền khởi kiện lại bằng một vụ án khác.

[8] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[9] Về án phí: căn cứ Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, các đương sự phải chịu án phí cụ thể như sau:

- Ông K phải chịu án phí hôn nhân và gia đình với số tiền 300.000 đồng và án phí cấp dưỡng với số tiền 300.000 đồng.

- Bà T phải chịu án phí hôn nhân và gia đình với số tiền 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

- Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 228 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

1. Về quan hệ hôn nhân: ông Trần Quốc K được ly hôn với bà Nguyễn Lâm Thảo T.

2. Về con chung:

2.1. Giao cháu Trần Lâm Bảo C, sinh ngày 30/7/2015 cho bà Nguyễn Lâm Thảo T trực tiếp chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng.

2.2. Ông Trần Quốc K có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng với số tiền 2.000.000 (hai triệu) đồng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.

2.3. Không chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Lâm Thảo T về việc hạn chế quyền thăm nom con đối với ông Trần Quốc K.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chưa thành niên, không ai có quyền ngăn cản. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con hay mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung:

3.1. Đình chỉ yêu cầu chia tài sản chung số tiền 280.000.000 (hai trăm tám mươi triệu) đồng và xe Hoa Lâm của bà Nguyễn Lâm Thảo T đối với ông Trần Quốc K.

3.2. Hậu quả của việc đình chỉ: bà Nguyễn Lâm Thảo T được quyền khởi kiện lại theo quy định của pháp luật.

4. Về nợ chung: ông Trần Quốc K khai không có nợ chung, bà Nguyễn Lâm Thảo T và Lâm Thị H không yêu cầu giải quyết đối với số tiền 1.500.000.000 (một tỷ năm trăm triệu) đồng nên không xem xét. Trường hợp sau này có tranh chấp thì bà Lâm Thị H được quyền khởi kiện bằng một vụ án khác.

5. Án phí:

5.1. Ông Trần Quốc K có nghĩa vụ chịu án phí hôn nhân và gia đình với số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí số XYZ ngày 19/4/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B, tỉnh Bến Tre.

5.2. Ông Trần Quốc K có nghĩa vụ chịu án phí cấp dưỡng với số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng.

5.3. Bà Nguyễn Lâm Thảo T có nghĩa vụ chịu án phí hôn nhân và gia đình với số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 4.500.000 (bốn triệu năm trăm nghìn) đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí số ABC ngày 20/6/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B, tỉnh Bến Tre. Như vậy, bà Nguyễn Lâm Thảo T được nhận lại số tiền 4.200.000 (bốn triệu hai trăm nghìn) đồng theo biên lai nêu trên.

6. Về quyền kháng cáo: ông Trần Quốc K và bà Nguyễn Lâm Thảo T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bà Lâm Thị H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử phúc thẩm.

7. Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

297
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con, chia tài sản chung và nợ chung khi ly hôn số 59/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:59/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bến Tre - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:18/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về