Bản án về ly hôn, tranh chấp con chung số 69/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 69/2022/HNGĐ-ST NGÀY 08/08/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP CON CHUNG

Ngày 08 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 180/2022/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 5 năm 2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp con chung”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 67/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 27 tháng 7 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Võ Thị Hoa M, sinh năm 1988; nơi cư trú: Khu a, phường P, thành phố M, tỉnh Bình Dương; (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

2. Bị đơn: Ông Đào Ngọc Q, sinh năm 1983; nơi cư trú: phường H, thành phố M, tỉnh Bình Dương; (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 02/3/2022 và quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Võ Thị Hoa M trình bày: Bà Võ Thị Hoa M và ông Đào Ngọc Q tự nguyện tìm hiểu, sống chung và đăng ký kết hôn với nhau tại Ủy ban nhân dân xã VH, huyện NG, tỉnh Hải Dương theo giấy chứng nhận kết hôn số 93 ngày 21/11/2011. Thời gian đầu cuộc sống vợ chồng hạnh phúc, sau đó thì phát sinh mâu thuẫn. Trong cuộc sống vợ chồng thường xảy ra cãi vã, không có tiếng nói chung, không còn tin tưởng lẫn nhau. Do tình cảm vợ chồng không còn và mục đích hôn nhân không đạt được nên bà yêu cầu Tòa án giải quyết để ly hôn với ông Đào Ngọc Q.

Về con chung: Có 01 con chung là Đào Quang M1, sinh ngày 16/10/2012. Sau khi ly hôn bà M yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung, không yêu cầu cấp dưỡng.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án, nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Theo bản tự khai đề ngày 27/6/2022, bị đơn ông Đào Ngọc Q trình bày: Ông Đào Ngọc Q thừa nhận với nội dung nêu trong đơn khởi kiện của bà Võ Thị Hoa M về thời gian kết hôn, quá trình sống chung, con chung. Hiện nay ông xác định ông bà không còn quan tâm, chăm sóc nhau nên đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Về quan hệ hôn nhân ông Q đồng ý ly hôn với bà M, thống nhất việc giao cháu Đào Quang M1 cho bà M trực tiếp nuôi dưỡng. Về tài sản chung, nợ chung: ông không yêu cầu giải quyết. Ngoài ra, do bận công việc nên ông Đào Ngọc Q có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một tham gia phiên tòa có ý kiến:

Về thủ tục tố tụng: Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một thụ lý giải quyết vụ án đúng thẩm quyền, đảm bảo thời hạn chuẩn bị xét xử. Quá trình điều tra, việc thu thập chứng cứ, hòa giải, tiếp cận công khai chứng cứ và tống đạt văn bản tố tụng được Tòa án thực hiện đúng quy định. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn và bị đơn đều có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Vì vậy, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với họ là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung, nhận thấy yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn bà Võ Thị Hoa M khởi kiện tranh chấp yêu cầu được ly hôn với bị đơn ông Đào Ngọc Q. Bị đơn có nơi cư trú tại số phường H, thành phố M, tỉnh Bình Dương. Do đó, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một theo khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Nguyên đơn, bị đơn đều có đơn đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt, do đó Hội đồng xét xử căn cứ Điều 227, Điều 228, khoản 1 Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự, xét xử vắng mặt các đương sự.

[2] Về nội dung:

[2.1] Bà Võ Thị Hoa M và ông Đào Ngọc Q kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn vào năm 2011 tại Ủy ban nhân dân xã VH, huyện NG, tỉnh Hải Dương theo giấy chứng nhận kết hôn số 93 ngày 21/11/2011 nên quan hệ hôn nhân giữa ông, bà là hợp pháp theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình.

[2.2] Bà Võ Thị Hoa M yêu cầu được ly hôn với ông Đào Ngọc Q vì cho rằng trong quá trình chung sống cuộc sống giữa vợ chồng thường xuyên bất đồng quan điểm, có nhiều xung đột, mâu thuẫn. Hội đồng xét xử nhận thấy, mục đích của hôn nhân là cùng nhau xây dựng gia đình hạnh phúc, vợ chồng hòa thuận nhưng giữa các đương sự đã phát sinh nhiều mâu thuẫn (theo đơn khởi kiện của nguyên đơn và sự thừa nhận của bị đơn tại bản tường trình ngày 27/6/2022). Xét thấy tình cảm vợ chồng đã không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu được ly hôn của bà M là có căn cứ chấp nhận theo qui định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình.

[3] Về con chung: Có 01 con chung là Đào Quang M1, sinh ngày 16/10/2012, sau ly hôn bà M yêu cầu được nuôi con chung. Nhận thấy hiện tại cháu Minh đang sống cùng với mẹ, do đó nhằm đảm bảo sự ổn định cho sự phát triển của cháu và cũng theo nguyện vọng của chính cháu tại biên bản ghi lời khai ngày 14/7/2022, Hội đồng xét xử xem chấp nhận yêu cầu của bà M, giao cháo Đào Quang M1 cho bà M trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng là phù hợp Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[4] Về cấn đề cấp dưỡng nuôi con chung: Do nguyên đơn không yêu cầu bị đơn phải cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết do các đương sự không có yêu cầu.

[6] Từ những nhận định trên, xét thấy có căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với bị đơn. Đối với lời đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Về án phí sơ thẩm: Nguyên đơn phải chịu theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 235, Điều 227, Điều 228, Điều 235, Điều 238, Điều 266, Điều 271 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Áp dụng các Điều 56, 57, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình;

Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Võ Thị Hoa M đối với ông Đào Ngọc Q về việc ly hôn, tranh chấp con chung.

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Võ Thị Hoa M được ly hôn đối với ông Đào Ngọc Q.

- Về con chung: Bà Võ Thị Hoa M được quyền trực tiếp nuôi con chung tên Đào Quang M1, sinh ngày 16/10/2012.

- Về cấp dưỡng nuôi con chung: Không giải quyết do đương sự không yêu cầu. Sau ly hôn, ông Đào Ngọc Q được quyền chăm sóc, thăm nom, giáo dục con, bà Võ Thị Hoa M không được quyền cản trở ông Q thực hiện quyền này. Vì lợi ích về mọi mặt của con, khi một hoặc cả hai bên đương sự có yêu cầu, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng.

- Về tài sản chung và nợ chung: Đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Võ Thị Hoa M phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) được khấu trừ toàn bộ vào số tiền đã nộp theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2021/0001210 ngày 27/4/2022 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.

Nguyên đơn, bị đơn được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

36
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp con chung số 69/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:69/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về