Bản án về ly hôn, tranh chấp con chung khi ly hôn số 56/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUYÊN MỘC, TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU

BẢN ÁN 56/2021/HNGĐ-ST NGÀY 01/07/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP CON CHUNG KHI LY HÔN

Ngày 01 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 588/2020/TLST- HNGĐ ngày 09 tháng 11 năm 2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp con chung khi ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 43/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 24 tháng 5 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 49/2021/QĐST ngày 11/6/2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Lê Thị Thu V1, sinh năm 1988 (có mặt) Địa chỉ: Tổ 8, ấp Thanh Bình 3, xã BC, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Tàu.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Đại Ngh, sinh năm 1987 (vắng mặt) Địa chỉ: Tổ 7, ấp Thanh Bình 1, xã BC, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 02/11/2020 và các biên bản làm việc tiếp theo tại Tòa án nguyên đơn bà Lê Thị Thu V1 trình bày như sau:

Bà Lê Thị Thu V1 và ông Nguyễn Đại Ngh sau một thời gian quen biết và tìm hiểu nhau đã tiến tới hôn nhân và đăng ký kết hôn tại UBND xã BC, huyện Xuyên Mộc và được cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 153 vào ngày 06/8/2015, việc tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn là tự nguyện, không ai ép buộc. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại xã BC, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Cuộc sống hôn nhân hạnh phúc được một thời gian đến đầu năm 2019 thì vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn và kéo dài cho đến ngày hôm nay.

Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, giữa hai vợ chồng không có tiếng nói chung nên thường xuyên cãi vã nhau. Ngoài ra ông Ngh là một người ham mê cờ bạc nên không chí thú làm ăn mà suốt ngày gây nợ nần, dù nhiều lần bà V1 cố gắng chịu đựng để khuyên nhủ ông Ngh nhưng không thành mà ông Ngh vẫn tính nào tật đó nên bà V1 và con về nhà mẹ ruột ở từ đầu năm 2020 cho đến nay nên hai người cũng ly thân nhau từ đó.

Từ khi ly thân nhau đến nay bà V1 và ông Ngh cũng không gặp nhau để bàn chuyện hàn gắn tình cảm vợ chồng chỉ khi nộp đơn khởi kiện tại Tòa án bà V1 mới thông báo với ông Ngh biết nhưng ông Ngh đồng ý ly hôn nhưng ông Ngh nói đang đi làm không sắp xếp về được. Nay bà V1 nhận thấy mâu thuẫn không thể hàn gắn được tình cảm vợ chồng không còn nên bà V1 yêu cầu ly hôn với ông Nguyễn Đại Ngh để có điều kiện xây dựng cuộc sống mới.

Về con chung: Bà Lê Thị Thu V1 và ông Nguyễn Đại Ngh có 01 con chung là cháu Nguyễn Bảo A1, sinh ngày 06/6/2016 hiện nay cháu An đang sống cùng bà V1. Nếu ly hôn bà V1 yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu ông Ngh cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết. Đối với ông Nguyễn Đại Ngh, Tòa án đã tiến hành các thủ tục Thông báo thụ lý vụ án, các thông báo mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, cũng như triệu tập tham gia phiên tòa hai lần nhưng vẫn vắng mặt không có lý do.

Phát biểu quan điểm của kiểm sát viên: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, là đúng trình tự, thủ tục tố tụng được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự.

Việc chấp hành pháp luật của đương sự: Nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của đương sự, bị đơn vắng mặt hai phiên tòa là chưa chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ của đương sự.

Về nội dung: Qua xem xét nội dung vụ án đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi xem xét các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng, thẩm quyền và quan hệ pháp luật tranh chấp:

Ông Nguyễn Đại Ngh đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng ông Ngh vắng mặt tại phiên tòa hai lần không có lý do, vì vậy xét xử vắng mặt ông Ngh là phù hợp với quy định tại Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

Qua xem xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì quan hệ pháp luật tranh chấp giữa các bên là “Ly hôn, tranh chấp con chung khi ly hôn” giữa bà Lê Thị Thu V1 với ông Nguyễn Đại Ngh nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Xuyên Mộc quy định tại Điều 28 và Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về hôn nhân: Bà Lê Thị Thu V1 với ông Nguyễn Đại Ngh sau một thời gian tìm hiểu đã tiến tới hôn nhân, có tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã BC, huyện Xuyên Mộc và được cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 153 vào ngày 06/8/2015, hôn nhân trên cơ sở tự nguyện nên đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Sau khi vợ chồng sống chung hạnh phúc với nhau được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn.

Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn bà V1 cho rằng cuộc sống chung vợ chồng bất đồng quan điểm sống, tính tình hai người không hợp nhau, nên hay xảy ra xung đột và cải vã lẫn nhau, hơn nữa ông Ngh là người không chí thú làm ăn, ham mê cờ bạc, dẫn đến nợ nần dù đã được khuyên nhủ nhiều lần nhưng không thay đổi. Do ông Nguyễn Đại Ngh vắng mặt nên Hội đồng xét xử căn cứ vào những chứng cứ do bà V1 cung cấp và những chứng cứ Tòa án thu thập làm căn cứ giải quyết vụ án.

Xét yêu cầu của bà V1 cho thấy sau khi mâu thuẫn xảy ra, lẽ ra ông Ngh và bà V1 phải cùng tìm nguyên nhân để hàn gắn vợ chồng và xây dựng gia đình nhưng từ đầu năm 2020 đến nay mạnh ai nấy sống, vợ chồng không quan tâm chăm sóc lẫn nhau, sau khi bà V1 đưa cháu An về nhà mẹ đẻ sinh sống và gửi đơn đến Tòa án đã tiến hành nhiều phiên hòa giải để đoàn tụ vợ chồng nhưng không có kết quả vì lý do bà V1 kiên quyết ly hôn để xây dựng cuộc sống mới, còn ông Ngh vắng mặt không có lý do. Chứng tỏ cả hai bên không còn tha thiết gì đối với quan hệ hôn nhân của chính mình.

Từ những nhận định nêu trên Hội đồng xét xử nhận thấy, tình cảm vợ chồng của ông Ngh và bà V1 thực sự không còn tình trạng hôn nhân nhân trầm trọng đời sống chung không thể kéo dài vì trong giai đoạn này là sự quyết liệt ly hôn của bà V1 và sự phó mặc của ông Ngh cho chính quan hệ hôn nhân đang rạn nứt của mình thì cơ hội đoàn tụ vợ chồng là không có. Vì vậy cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà V1.

[3]. Về con chung: Bà Lê Thị Thu V1 và ông Nguyễn Đại Ngh có 01 con chung là cháu Nguyễn Bảo A1, sinh ngày 06/6/2016 hiện nay cháu An đang sống cùng bà V1. Nếu ly hôn bà V1 yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu ông Ngh cấp dưỡng nuôi con. Xét ý kiến của bà V1 cho thấy khi mâu thuẫn xảy ra vợ chồng sống không hạnh phúc, bà V1 vẫn trực tiếp nuôi dưỡng con chung từ khi mâu thuẫn xảy ra đến nay, ông Ngh không đến Tòa án để trình bày nguyện vọng của mình về việc nuôi dưỡng con chung và cấp dưỡng nuôi con nhưng hiện nay cháu An vẫn đang học tập và phát triển bình thường vì ngoài tình cảm của mẹ, cháu An còn được gia đình bên ngoại trực tiếp chăm sóc, vì vậy Hội đồng xét xử căn cứ vào các quy định của pháp luật cũng như điều kiện tốt nhất cho cháu An phát triển về mặt thể chất cũng như tinh thần cần để cháu An cho bà V1 tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp, ông Ngh không cấp dưỡng nuôi con.

[4]. Về tài sản chung và nợ chung: bà V1 không yêu cầu nên Tòa án không giải quyết.

Về án phí: Áp dụng Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 bà V1 phải nộp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân & gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các điều 28, 35, 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 51, 56 , 81, 82, 83, 84, 107 Luật Hôn nhân & Gia đình năm 2014; Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016. Tuyên xử:

Ngh.

[1]. Về hôn nhân: Cho bà Lê Thị Thu V1 được ly hôn với ông Nguyễn Đại [2]. Về con chung: Bà Lê Thị Thu V1 và ông Nguyễn Đại Ngh có 01 con chung là cháu Nguyễn Bảo A1, sinh ngày 06/6/2016 hiện nay cháu An đang sống cùng bà V1, bà Lê Thị Thu V1 được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Nguyễn Bảo A1, sinh ngày 06/6/2016, ông Nguyễn Đại Ngh không phải cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên mà không ai được cản trở; cha mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc chăm nom, chăm sóc, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, khi có yêu cầu của cha hoặc mẹ hoặc của cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con. Khi có lý do chính đáng, có thể yêu cầu cấp dưỡng và mức cấp dưỡng có thể thay đổi.

[3]. Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu nên Tòa án không xem xét.

[4]. Về án phí: Bà Lê Thị Thu V1 phải nộp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí Hôn nhân & Gia đình sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí Hôn nhân & Gia đình bà V1 đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0008886 ngày 05/11/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Xuyên Mộc. Như vậy bà V1 đã nộp đủ án phí Hôn nhân & Gia đình sơ thẩm.

Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu xét xử phúc thẩm. Đối với đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn 15 ngày được tính từ ngày nhận hoặc được niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

224
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp con chung khi ly hôn số 56/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:56/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuyên Mộc - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 01/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về