Bản án về ly hôn, tranh chấp con chung khi ly hôn số 06/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN BẮC - TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 06/2022/HNGĐ-ST NGÀY 23/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP CON CHUNG KHI LY HÔN

Ngày 23 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thuận Bắc, tỉnh Ninh Thuận xét xử sơ thẩm, công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số: 18/2022/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 5 năm 2022, về việc "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 19 tháng 8 năm 2022, Quyết định hoãn phiên tòa số 12/2022/QĐST-HNGĐ ngày 07 tháng 9 năm 2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Katơr Thị Q, sinh năm 1992 (Có mặt).

Bị đơn: Anh Chamaléa M, sinh năm: 1984 (vắng mặt).

Cùng nơi cư trú: Thôn B 1, xã L, huyện Thuận Bắc, tỉnh Ninh Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện đề ngày 20/4/2022 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Katơr Thị Q trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Q và anh Chamaléa M tự nguyện tìm hiểu và tiến tới hôn nhân, không bị ép buộc, có đăng ký kết hôn tại UBND xã L, huyện Thuận Bắc, tỉnh Ninh Thuận vào ngày 09/9/2010. Thời gian đầu vợ chồng chung sống có hạnh phúc nhưng khoảng hai năm sau thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân theo Chị Q là do anh Mía thường hay ghen tuông vô cớ, uống rượu say kiếm chuyện gây gỗ chửi mắng, xúc phạm Chị Q nhiều lần. Từ năm 2019 anh Mía bỏ nhà đi không còn liên lạc với Chị Q. Thỉnh thoảng anh Mía có về thăm các con rồi lại đi về nhà cha mẹ ở, gia đình hai bên nhiều lần tác động hòa giải nhưng anh Mía vẫn không có sự thay đổi. Từ đó đến nay hai người không còn quan tâm, chăm sóc nhau nữa. Hai người cũng không ai tác động quay về chung sống đoàn tụ được nữa. Do đó, Chị Q làm đơn khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết cho chị được ly hôn anh Chamaléa M.

- Về con chung: Chị Q và anh Mía có 02 người con chung là Katơr Thị Hanny, sinh ngày 24/9/2009, Katơr Minh Toàn, sinh ngày 18/9/2018. Chị Q có nguyện vọng được nuôi dưỡng hai con chung và không yêu cầu anh Mía phải cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Chị Q không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn anh Chamaléa M đã được Tòa án niêm yết triệu tập hợp lệ đến Tòa án để ghi lời khai, tham gia phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải vào ngày 19/8/2022. Tòa án đã ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử vào ngày 07/9/2022 nhưng anh Mía vẫn không có mặt tại Tòa án, do đó Tòa án không ghi lời khai và không tiến hành phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải được.

Tại biên bản xác minh ngày 11/8/2022 do Tòa án thực hiện thì chính quyền địa phương nơi các đương sự cư trú xác nhận Chị Q và anh Mía có đăng ký hôn tại UBND xã L năm 2010, vợ chồng Chị Q có 02 người con chung đang sinh sống với Chị Q. Vợ chồng có mâu thuẫn trầm trọng hiện không còn sống chung với nhau nữa hơn hai năm nay.

Quan điểm của Viện kiểm sát thể hiện: Kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm nghị án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử (HĐXX), Thư ký luôn tuân theo pháp luật tố tụng dân sự và người tham gia tố tụng dân sự là nguyên đơn luôn chấp hành pháp luật. Riêng bị đơn vắng mặt nhưng Tòa án đã thực hiện đầy đủ thủ tục tố tụng theo quy định và xét xử vắng mặt bị đơn là đúng quy định pháp luật. Về nội dung giải quyết vụ án, Viện kiểm sát đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về ly hôn và giao 02 con chung cho nguyên đơn Chị Q trực tiếp nuôi dưỡng.

Về tài sản chung, nợ chung: Do các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên đề nghị HĐXX không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn Chị Q có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Chamaléa M và yêu cầu được nuôi 02 con chung, anh Chamaléa M có nơi cư trú tại địa bàn huyện Thuận Bắc. Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS), HĐXX xác định đây là vụ án Hôn nhân và gia đình về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” và vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thuận Bắc, tỉnh Ninh Thuận.

Sau khi thông báo việc thụ lý vụ án, Tòa án tiến hành tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý, nội dung có ghi rõ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Chị Q (Yêu cầu ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn). Chứng cứ kèm theo là Giấy chứng nhận kết hôn, sổ hộ khẩu, trích lục khai sinh (bản sao). Tuy nhiên, trong thời hạn 15 ngày theo quy định tại Điều 199 của Bộ luật tố tụng dân sự bị đơn (anh Mía) không có ý kiến gì đối với yêu cầu của nguyên đơn và cũng không phản đối chứng cứ do nguyên đơn cung cấp (khoản 2 Điều 92 của BLTTDS). Tòa án tiến hành tống đạt hợp lệ Thông báo phiên hòa giải và Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa nhưng bị đơn vẫn vắng mặt. Điều này chứng tỏ bị đơn anh Mía đã từ bỏ quyền tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Căn cứ khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn anh Mía.

[2] Về nội dung vụ án: Xét thấy Chị Q và anh Mía tự nguyện tìm hiểu tiến tới hôn nhân và chung sống với nhau từ năm 2010, có đăng ký kết hôn tại UBND xã L, huyện Thuận Bắc theo Giấy chứng nhận kết hôn số 94, Quyển 01/2010 ngày 09/9/2010, đây là hôn nhân hợp pháp, phù hợp với quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình. Theo lời trình bày của Chị Q có trong hồ sơ vụ án của Tòa án thể hiện: Trong cuộc sống hôn nhân giữa Chị Q và anh Mía có xảy ra mâu thuẫn, thường hay xích mích, bất đồng quan điểm cải nhau do anh Mía nghi ngờ ghen tuông nên hay uống rượu say về kiếm chuyện, gây gỗ chửi mắng xúc phạm Chị Q nhiều lần rồi bỏ nhà đi về cha mẹ ruột ở tại thôn B 2, xã L hơn hai năm nay, hai người không còn sống chung với nhau hơn 02 năm nay, mạnh ai nấy sống, không còn quan tâm chăm sóc nhau nữa. Chị Q cho rằng tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, cả hai không thể quay về chung sống đoàn tụ với nhau nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Mía. Tại Biên bản xác minh ở địa phương nơi đương sự sinh sống có trong hồ sơ vụ án của Tòa án thể hiện: Trong cuộc sống hôn nhân giữa Chị Q và anh Mía hay có xảy ra mâu thuẫn nên vợ chồng sống ly thân hơn hai năm nay là đúng sự thật.

Như vậy, mâu thuẫn vợ chồng của Chị Q anh Mía là nghiêm trọng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, phần lỗi thuộc về anh Mía. Nên căn cứ vào khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, HĐXX chấp nhận yêu cầu của Chị Q được ly hôn anh Mía.

[3] Về con chung: Chị Q và anh Mía có 02 người con chung là Katơr Thị Hanny, sinh ngày 24/9/2009, Katơr Minh Toàn, sinh ngày 18/9/2018. Sau khi sống ly thân Chị Q là người trực tiếp nuôi dưỡng các con chung cho đến nay, do không ghi nhận được ý kiến của anh Mía về việc nuôi dưỡng con chung. Vì vậy, để đảm bảo cho sự phát triển ổn định và theo nguyện vọng của các con chung, HĐXX xét thấy tiếp tục giao Chị Q nuôi dưỡng 02 con chung là phù hợp với quy định tại Điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Q không có yêu cầu anh Mía cấp dưỡng nuôi con nên HĐXX không xem xét.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Chị Q không yêu cầu Tòa án giải quyết nên HĐXX không xem xét.

[5] Về án phí: Theo quy định tại khoản 4 điều 147 của BLTTDS, khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định án phí và lệ phí Tòa án, nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch theo quy định pháp luật.

[6] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát như đã nêu trên phù hợp với nhận định của HĐXX nên đề nghị của Viện kiểm sát được HĐXX chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, khoản 1 Điều 56, các Điều 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là chị Katơr Thị Q đối với bị đơn là anh Chamaléa M.

Về quan hệ hôn nhân: Chị Katơr Thị Q được ly hôn anh Chamaléa M.

Về con chung: Giao các con Katơr Thị Hanny, sinh ngày 24/9/2009, Katơr Minh Toàn, sinh ngày 18/9/2018 cho chị Katơr Thị Q có quyền và nghĩa vụ trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục đến khi đủ 18 tuổi. Do chị Katơr Thị Q không yêu cầu anh Chamaléa M phải cấp dưỡng nuôi con chung nên HĐXX không xem xét.

Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ thăm nom con, không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Về án phí: Chị Katơr Thị Q phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai số 0000141 ngày 11/5/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuận Bắc. Chị Katơr Thị Q đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm, công khai, nguyên đơn có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 23/9/2022). Vắng mặt bị đơn, quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

140
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp con chung khi ly hôn số 06/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:06/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Bắc - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về